CHÁNH VĂN
Từ truớc đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình-tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ-Bi mới làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi-dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của các chùa-chiền. Cách thờ-phượng ấy tùy theo điều kiện các sư mà chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm-hồn hơn ở vào sự hào nháng (nhoáng) bề ngoài. Từ trước, chúng ta thờ trần điều là di-tích của Đức PHẬT THẦY TÂY-AN để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông-phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức PHẬT, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu-hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân-loại không phân biệt chủng tộc và cá-nhân. Vì vậy, chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần vô-thượng của nhà Phật.
Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông-Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái ở ngoài. Còn người nào có cốt PHẬT trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến giờ cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.
Về cách cúng PHẬT, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra, chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ Ông Bà cúng món chi cũng đặng.
Ngoài sự thờ PHẬT, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh-hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn-tích.
LƯỢC GIẢI
A- CÁC NGÔI THỜ
Theo nghi thức thờ phượng của PGHH thì trong gia đình của mỗi tín đồ đều có ba ngôi thờ cúng.
1- BÀN THỜ PHẬT, cũng gọi là Ngôi Tam Bảo, thờ ở giữa nhà, cao hơn bàn Cửu Huyền Thất Tổ. Theo Đức Thầy cho biết: các chùa trong Đạo Phật từ trước tới giờ, người ta trang trí quá nhiều hình tượng; tuy vì sự tôn kính Phật, Pháp, Tăng, song cũng có người lợi dụng nơi ấy để sanh sống. Bây giờ chúng ta không nên thờ hình tướng như vậy nữa, đây không có ý hủy báng sự thờ phượng của các chùa, đó là tùy theo điều kiện của các Tăng sư, chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng.
Riêng về cư sĩ tại gia như chúng ta hiện giờ, không nên thờ theo hình thức đó, mà nên thờ đơn giản lại, để cho lòng tín ngưỡng xoay về tâm hơn là sắc tướng bên ngoài.
Lúc Đức Giáo Chủ PGHH mới khai Đạo (1939) Ngài dạy tín đồ trang trí ngôi Tam Bảo một bức trần điều, là vì noi theo truyền thống của Đức Phật Thầy Tây An. Đến tháng 2 năm Canh Thìn (1940) có người tự xưng cùng một Tông phái, cũng thờ Trần đỏ như vậy, nhưng họ làm sai tôn chỉ của Đức Phật, nên Đức Thầy cho toàn thể trong Đạo đổi lại bức trần màu dà. Ngài cũng cho biết ý nghĩa:
Từ trước tới giờ các nhà tu hay dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục, bởi màu dà do sự kết hợp với các màu khác mà thành, nên dùng nó cũng để tượng trưng cho sự hòa hợp, bình đẳng nhân loại…Chính bức trần dà ấy cũng tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật. Là một tín đồ PGHH, chúng ta không nên thờ phượng cách nào khác.
2- BÀN THÔNG THIÊN: Bàn này dựng trước sân nhà, hoặc dựa mái nhà cũng được. Theo ý Đức Thầy, nếu trong nhà chật hẹp, chỉ một bàn Thông Thiên cũng được.
-Cốt Phật đã có từ trước, để y cũng đặng hoặc hiến vào chùa hay cho người Tông phái khác thỉnh. Còn hình tượng bằng giấy nên đốt đi, không nên chừa lại. (Có người hỏi sao tượng bằng giấy thì đốt, còn chơn dung Đức Thầy còn để lại ? – Xin trả lời: Để chơn dung Đức Thầy là kỷ niệm, chớ không phải thờ như tượng Phật. Như đã thấy chỉ để 2 bên, chớ chẳng để trong ngôi Tam Bảo.)
-Trường hợp ở đậu với người không cùng một Đạo, tới thời cúng chỉ niệm thầm đủ các bài nguyện trong tâm cũng được.
3- BÀN THỜ CỬU HUYỀN THẤT TỔ:
Bàn nầy đặt giữa ngay giữa nhà, thấp hơn ngôi Tam Bảo, hoặc dưới ngôi Tam Bảo, nhà nhỏ thì làm nhị cấp.
CÁC VẬT DÂNG CÚNG: Phật Trời không hề dùng vật thực thế gian, chỉ chứng tấm lòng thành mà thôi:
“Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.
Chẳng có cần trà, quả, hương nồng,
Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ”.
Cho nên Đức Giáo Chủ dạy: bàn Phật và bàn Thông Thiên chỉ được cúng 3 món tiêu biểu mà thôi:
1-“Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch”
2-“Bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết.
3-“Còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược”.
Ngoài ra không nên cúng một món gì khác cả.
-Còn bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ cúng món chi cũng đặng (có chi cúng nấy).
-NÊN THỜ HOẶC KHÔNG NÊN THỜ AI ? Người tín đồ PGHH chỉ được thờ:“Phật, Tổ Tiên, Ông Bà, Cha mẹ và những vị anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn tích”.
B- Ý NGHĨA BA NGÔI THỜ CÚNG
Theo truyền thống Quốc dân Việt
Do truyền thống đó, PGHH đã hình thành trong lòng dân tộc và cũng mang màu sắc dân tộc. Tất nhiên là lời giáo huấn của Đức Giáo Chủ cũng dung thông cả Tam giáo để khế hợp với tinh thần dân tộc. Như Ngài đã cho biết.
“Trong Tam Giáo ân cần mở đạo,
Trường ngoại bang phục đáo như xưa”.
Và những câu:
“Phật, Thánh, Tiên Đông Độ lướt sang,
Miền
Hoặc là:
“Phật, Tiên, Thánh lòng nhơn hà hải,
Những ước ao thế giới hòa bình”.
Vì thế, trong nghi thức thờ cúng, Đức Thầy dạy: nơi tư gia của mỗi tín đồ có 3 ngôi thờ cúng là tượng trưng cho tam giáo: Phật, Tiên, Thánh.
Vào năm 1968, Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương có họp bàn và soạn thảo chương trình tu học Đạo pháp Khai Tâm. Trong đó có bài “Ý nghĩa ba chỗ thờ cúng”. Nay chúng tôi cũng căn cứ vào đó mà lược giải ra đây:
1- BÀN THỜ PHẬT: Cũng gọi là “Ngôi Tam Bảo”. Nơi đây tôn thờ vị giáo chủ Đạo Phật trong cõi Ta Bà và mười phương chư Phật, Pháp, Tăng, cùng Phật Tổ, Phật Thầy…Nên bàn thờ nầy có ý nghĩa tượng trưng cho Phật Đạo.
2- BÀN THÔNG THIÊN: Có ý nghĩa: bàn thờ thông lên Trời. Vì trong câu nguyện thứ nhứt có 3 vị: Thiên hoàng (vua các cõi Trời), Địa hoàng (vua các cõi địa ngục), Nhơn hoàng (vua các cõi người). Cũng gọi là vị Chuyển Luân ThánhVương của cõi đời Thượng ngươn Thánh Đức tới đây:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc” và “Tam Hoàng trở lại là đời Thượng ngươn”.( ĐT). Nói chung các vị ấy đều là bậc: Phật Thánh Tiên.
Lúc Đức Thầy mới khai Đạo (1939), Đức Ông (thân sinh của Ngài) thấy Ngài sửa lại cái bàn Thông Thiên mà Đức Ông đã thờ từ trước có 2 cấp. Đức Thầy dẹp bỏ cấp dưới và 2 ly gạo muối, chỉ chừa lại 1 cấp, 1 lư hương, 1 chung bông và 3 chung nước.
Đức Ông liền hỏi:
-Theo truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương thì thờ Bàn Thông Thiên 2 cấp: Hoàng Thiên và Hậu Thổ, nay Thầy Tư bỏ hết 1 cấp làm sao đủ ?
Đức Thầy vui vẻ hỏi lại:
-Ông Cả nói thờ cấp trên là Hoàng Thiên, tức Thiên Hoàng, cấp dưới là Hậu Thổ, tức Địa Hoàng, còn Nhơn Hoàng thờ ở đâu ? Đoạn Ngài nói tiếp:
-Thờ thống nhứt lại một cấp là đủ hết 3 vị, còn thờ 2 cấp lại bị thiếu !
Vả lại, các danh từ: Trời, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, non Bồng nước Nhược, non Tiên, Tiên bang…mà Đức Thầy có dùng trong Sấm thi của Ngài đều chỉ cho cảnh Tiên, người Tiên:
“Kể từ Tiên cảnh Ta về,
Non Bồng Ta ở dựa kề mất năm”.( ĐT)
Xét qua lời chỉ giáo của Đức Thầy và các lý lẽ vừa luận trên, chúng ta có thể hiểu chung một ý nghĩa: Bàn Thông Thiên là Bàn thờ thông lên trời, cũng gọi là bàn thờ Cộng đồng Tam Giáo, dùng để tưởng niệm bốn phương Trời Phật. Nó hàm chứa tinh thần tín ngưỡng Phật Trời muôn thuở, của người dân Việt Nam chúng ta “Thiên tại óc thềm đầu” ra khỏi mái nhà thân mật, người lương dân đã tưởng nhớ Phật Trời. Đức Thầy dạy rành mạch:
“Đi xa thì phải dặn rành,
Bàn Thông Thiên cũng thiệt hành như y.
Bốn phương đều đọc vậy thì,
Cúi đầu bái tạ từ bi Phật Trời”.
Hoặc là:
“Cầu Trời Phật độ tiêu tai,
Cứu trong thiên hạ Đạo khai khắp trời”.
(Những chữ “…bái tạ từ bi Phật Trời” và “Cầu Phật Trời độ…”, thầy rõ Đức Thầy dạy cầu nguyện nơi Bàn Thông Thiên, chẳng phải Phật không mà luôn cả Trời (Tiên ).)
Tóm lại, qua các lý do kể trên, chúng ta có một nhận định chung là bàn Thông Thiên có ý nghĩa tượng trưng cho Tiên Đạo.
3- BÀN THỜ ÔNG BÀ hay CỬU HUYỀN THẤT TỔ, tượng trưng cho Thánh Đạo. Bàn thờ nầy do truyền thống của Tổ Tiên ta từ thời Hùng Vương lập quốc tới giờ. Trong đây là tôn thờ Tổ Quốc và Ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp. Theo Tôn chỉ của PGHH thì hai điều TRUNG và HIẾU là then chốt:
“Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp,
Quân thần nghĩa trọng hữu thiên niên”.( ĐT)
Hoặc là:
“Hiếu trung lòng chớ vội quên,
Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên đài”.( ĐT)
Là một nền Đạo xuất phát trong lòng dân tộc, người tín đồ PGHH với tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” không thể thiếu bàn thờ ông bà được. Cho nên bàn thờ “Cửu Huyền Thất Tổ” (ông bà) có ý nghĩa tượng trưng cho “Thánh Đạo”.
CHÚ THÍCH
THỜ PHƯỢNG: Cũng gọi là phượng thờ hay phụng thờ. Có nghĩa thờ kính và vâng chịu làm theo. Đức Thầy bảo:
“Hiếu trung truyện tích sờ sờ,
Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha”.
LỢI DỤNG: Thừa cơ hội mưu lợi cho mình mà có hại cho người khác.
HỦY BÁNG: Phỉ báng, gièm pha nói xấu người ta.
ĐƠN GIẢN: Đơn sơ, giản dị, không rườm rà phiền phức.
TRẦN ĐIỀU: Bức trần đỏ, tức tấm tranh màu đỏ, tượng trưng cho sự tốt đẹp. Khi xưa Đức Phật Thầy Tây An khai sáng Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài dạy mỗi tín đồ thờ trên ngôi Tam Bảo một bức trần điều (đỏ) chớ không thờ tượng cốt chi hết, để tượng trưng cho tinh thần vô vi và tình thương yêu nhân loại muôn thuở của dân tộc ta, qua câu Ca dao:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Thời nay lúc mới khai Đạo, Đức Thầy cũng theo di tích nói trên. Ngài dạy nơi nhà của mỗi tín đồ:
“Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần Đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình”.
TÔNG PHÁI: Cũng gọi là Tôn phái, có nghĩa một chi nhánh của Đạo Phật, như Tịnh độ Tông hay Thiền Tông, Mật Tông,v.v…
MÀU DÀ: Sắc hơi nâu nâu. Hồi trước từ tấm vải trắng, người ta lấy vỏ cây dà nấu ra nước rồi nhuộm lại thành màu dà. Sau nầy người ta dùng các màu: đỏ, trắng, đen…hòa hợp lại thành màu dà tươi đẹp.
Xưa, lúc Thái Tử Sĩ Đạt Ta mới đi tu, Ngài đem bộ nhung phục, đổi lấy bộ đồ dà của anh thợ săn mặc vào, để không còn vướng bận chút mùi cao sang vương giả nào trong người nữa. Bởi thế, từ đó đến giờ các nhà tu thường dùng màu dà, để biểu hiện cho sự thoát tục của mình. Đức Thầy từng nói:
“Từ mang một tấm áo dà,
Mùi thiền đã thấm ơn nhà lợt phai”.
Thế nên dùng màu dà là vừa biểu hiện cho sự siêu thoát và cũng vừa tượng trưng cho sự hòa hiệp, thương yêu, đoàn kết và bình đẳng cả nhân loại không phân biệt chủng tộc hay cá nhân:
“Dứt trần mang bộ sồng nâu,
Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm”.( ĐT)
Cho nên Đức Thầy dạy tín đồ dùng màu dà trong chỗ thờ phượng là để tiêu biểu cho tinh thần từ bi, bình đẳng và vô thượng của nhà Phật.
BIỂU HIỆN: Hiện ra, bày ra rõ rệt.
THOÁT TỤC: Thoát khỏi vòng trần tục, không bị các vật dục: danh, lợi, tình chi phối hay ràng buộc.
TIÊU BIỂU: Cây nêu hoặc tấm bảng nêu lên cho người ta trông vào mà thấy được tinh thần bên trong.
TINH KHIẾT: Trong sạch cao cả, không chút bợn nhơ, tà quấy. Đức Thầy nói:
“Mài gươm trí cho tinh cho khiết”.
UẾ TRƯỢC: Dơ bẩn, hôi thúi.
ANH HÙNG: Anh là vua các loài hoa; Hùng là vua các loài thú. Chỉ bực hào kiệt, tài giỏi xuất chúng.
TÀ THẦN: Các vị thần không chơn chánh hay phá phách dân chúng, đặng ăn đồ cúng tế.
CĂN TÍCH: Gốc tích rõ ràng, có lịch sử chính xác.
CÂU HỎI
1/-Từ trước tới giờ các chùa thờ Phật ra sao ? Và có ý nghĩa gì ?
2/-Thờ như vậy có sao không ?
3/-Bây giờ Đức Thầy dạy chúng ta thờ thế nào ?
4/-Riêng người Cư sĩ, Đức Thầy dạy thờ phượng ra sao ? Và có ý nghĩa gì ?
5/-Lúc mới khai Đạo, Đức Thầy bảo thờ Trần Điều là theo di tích của ai ? Và có nghĩa ra sao ?
6/-Lý do nào Đức Thầy cho đổi Trần điều ra Trần dà ?
7/-Trần dà có nghĩa ra sao và tiêu biểu cho cái gì ?
8/-Nếu nhà nào chật, ta thờ như thế nào ? Và tại sao ?
9/-Nhà nào đã có cốt Phật và hình tượng phải làm sao ?
10/-Trường hợp ở đậu với người không có Đạo ta phải thờ cúng như thế nào ?
11/-Đức Thầy dạy nên cúng Phật bằng các vật gì, cấm món nào và cho biết sự tiêu biểu của các vật được cúng ?
12/-Bàn thờ Ông bà, ta nên cúng như thế nào ?
13/-Đức Thầy cho ta thờ những ai ? Và không cho thờ ai ?
14/-Ba ngôi thờ cúng là thờ ai ? Và tượng trưng cho những gì ?