Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 4

28 Tháng Sáu 200212:00 SA(Xem: 40747)
Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 4

Thất-sơn lộ vẽ đài lầu,
Chưng ni mới thấy nhiệm mầu của ta.
Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí,
Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây.
Bây giờ nương bóng cờ tây,
Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn.
Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc,
Ta quyến gìn chủng-tộc giang-sơn.
Ta khùng mà chẳng có cơn,
Cũng không có tánh giận hờn bá gia.
Cười rồi khóc thiết-tha liệu-điệu,
Vợ xa chồng bận-bịu thê lương.
Chẳng cần trà, quả, nồng hương,
Miễn cho bá-tánh biêt đường chơn tu.
Nghe kệ sám như ru giấc mộng,
Lo chê cười hầu họng reo vang.
Ỷ mình nhiều của giàu sang,
Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa.
Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét,
Lấy tâm thần xem xét thể nao?
Sấm vang thì lộ bảng vàng,
Chư nhu thế-giới khắp tràng tới thi.
Chữ thi gần chữ sầu-bi,
Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi.
Chừng đó mới trời ơi đất hỡi,
Mang khổ hình vì bởi chẳng tu.
Ham vui quyền quí dại ngu,
Chữ sang danh vọng như mù đi đêm.
Ta nào có nói thêm cho chúng,
Quá yêu đời viết túng ít câu.
Ít câu mà ý nhiệm sâu,
Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan.
Đây sắp đến lầm than khắp chốn,
Việc tu hành đâu tốn tiền chi.
Nầy nầy lời lẽ rán ghi,
Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây.
Ta mắc lánh tà-tây đa sự,
Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni.
Ai là đáng bực tu-mi,
Thương đời ta mới làm thi khuyên đời.
Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến,
Nên phải làm kẻ mến người khinh,
Người hiền tâm trí thông-minh.
Người hung cứ mãi chống kình với ta.
Theo học cồ nôm-na ít tiếng,
Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm.
Chữ nhu ta học âm-thầm,
Ai là người tri rán tầm cho ra.
Để đến lúc phong-ba biến-chuyển,
Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông.
Mới là sợ chết ước-mong,
Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian.
Tiếng đờn hò liếu cống-xang,
Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh.
Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới,
Ta ra đời nên mới đổi thay.
Bởi vì lời lẽ thẳng ngay,
Cho nên chúng nó ghét bài phú thi.
Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ,
Kệ khuyên trần nước đổ lá môn.
Khắp cùng làng xóm hương thôn,
Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu.
Dạy đạo-đức người tu rạng lý,
Mong cho người hữu chí làm theo.
Không làm thì ắt mang eo,
Làm xong vượt khổ qua đèo chông-gai.

H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão

LUẬN VIỆC TU HÀNH

Tu hành dương-thế cậy đồng tiền,
Phật-Giáo vì tiền phải ngửa-nghiêng.
Bát-nhã chẳng đưa người tội ác,
Thuyền-từ nào rước lại Tây-Thiên.
Trần-gian đầy-dẫy người làm dối,
Đạo cả nào trông đến cảnh thiền.
Đoái thấy người đời lòng bắt chán,
Dương-trần lầm lạc đáng ưu-phiền.

Muốn dặng về Thần với Thánh-Tiên,
Kỹ xem cõi thế thấy kia liền.
Cư trần bất nhiễm là người Thánh,
Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền.
Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
Tham danh phế đạo chí đâu yên.
Sao bằng cửa Phật vui thanh-tịnh,
Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên.

Tiếc vì không đức, tiếc chi tiền,
Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên.
Bác-ái xả thân tầm đạo chánh,
Độ người lao khổ dạ không phiền.
Mình vàng Thái-Tử ngôi còn bỏ,
Vóc ngọc Đông-cung tước phế liền.
Xem đó hỡi người mau lập chí,
Tu hành khá nhớ giữ cho nguyên.

Muốn đặng thành Thần với Phật Tiên,
Rán tu ân đức chớ tu tiền.
Lợi danh chớp nháng như luồng gió,
Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền.
Sớm thức tỉnh tâm tầm đạo chánh,
Sau nầy về Phật với ngôi Tiên.
Lập thân giúp thế nên cộng-quả,
Muôn kiếp danh hiền sách vẫn biên.

H.H. năm Kỷ-Mão

TAM HÙNG TRỔ MẠT

Tam hùng trổ mặt ngỏ chào đời,
Từ mẫu bé nhi cũng thảnh-thơi.
Nam-việt xuất thần ơn trên trước,
Đó là việc nước với việc trời.

H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão

(Bài nầy viết trong khi người ta đồn bà Sáu ở núi Tượng sanh 3 người con : một mặt xanh, một mặt đỏ, một mặt trắng).

LỤY TAM CHÂU

Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,
Thập bát chư bang động can qua.
Dương-gian mãnh thú trừ tàn-ác,
Lê-thứ hẫu lai khổ thiết-tha.
Tần bang hậu hận tiên diêu-động,
Nam-quốc lương dân kiến linh-xa.
Phồn hoa đô hội lưu giang huyến,
Dư đảng dọc ngang cấp ma-ha.

H.H. tháng 8 năm Kỷ-Mão

VẾN MÀN BÍ MẬT

Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên,
Chư bang điềm tĩnh sỉ danh hiền.
Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc,
Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên.
Đởm lực hà quê trung trực thử,
Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên.
Sơn ly Phật-cảnh hồi Nam-việt,
Diện khổ sanh kỳ vị trưởng miên.

BỬU-ngọc trường quan ẩn tích kỳ,
SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi.
KỲ-thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi.
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử,
NON lịch đài mây rạng tu mi.
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ,
NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi.

Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang,
Ngô giả tùng nhung khí đởm gian.
Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký,
Lương thứ dương-trần đạo dĩ an.

Đào nguyên di khả tứ hồ-văn,
Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng.
Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
Vận thới thô trình trực bỉnh thăng.

Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão

THẦY BA ĐẠO ở H.H hỏi thuốc

Nghe tiếng ơn trên dốc cứu đời,
Dám xin khép nép ngỏ đôi lời.
Nhơn dân sắp đến vương bịnh khổ,
Tiên dược phương nào được thảnh-thơi.

ĐỨC THẦY đáp họa

Mượn xác ra cơ dốc dẫn đời,
Bày tỏ cùng ai ngỏ mấy lời.
Lục châu xao-xiếng nhơn dân khổ,
Phật-Giáo khẩn cầu đặng thảnh-thơi.

THẦY BA ĐẠO hỏi

Thảnh-thơi dầu đặng phước trời,
Đau ốm qua rồi trẻ ăn chơi.
Cho thuốc chỉ đường nhờ phương-phép,
Ngàn năm ơn đức nguyện y lời.

ĐỨC THẦY đáp họa

Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời,
Muốn khỏi hội nầy trẻ ăn chơi.
Lục tự trì tâm là phương-phép,
Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời.

THẦY BA ĐẠO hỏi

Y lời dám hỏi lén một câu,
Tiên-Phật rộng xa rất nhiệm mầu.
Đạo đời bốn chữ đây là gốc,
Tà chánh xin nhờ tiếng ngọc-châu.

ĐỨC THẦY đáp

Trả lời ý-kiến đó một câu,
Ẩn xác phàm phu chửa nhiệm-mầu.
Đạo đời mầy chữ đây là gốc,
Tà chánh tâm trì rõ ngọc châu.

Muốn đó gần đây giải mộng sầu,
Bốn chữ xuống phàm chớ ở đâu.
Khuyến-khích cùng ai mau tỉnh ngộ,
Lai vãng gần ta rõ Đạo mầu.

Văn-sĩ nhắn-nhen có mấy lời,
Đó muốn tỏ tình có mấy hơi.
Ra ngõ lên xe chừng một lát (1),
Sáng ngày tiếp kiến chuyện trò chơi.

H.H., năm Kỷ-Mão

(1)Đức Thầy mời thầy ba Đạo sang chơi vì thầy ấy ở nhà và 3 bài thi gởi Đức Thầy là do một em học trò đem đến.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn