Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 3

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 42701)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 3

Viếng làng MỸ-HỘI-ĐÔNG (Long-Xuyên)

Canh-niên trổi bước thừa nhàn,
Để chơn đến viếng xóm làng Hôi-Đông.
Về non dạ luống ước-mong,
Cám tình lê-thứ tuôn ròng lụy châu.
Lời thăm cùng khắp đâu đâu,
Hương thôn bổn-đạo lo âu mối giềng.
Tu là tu Phật tu Tiên,
Tu cho rõ biết chũ hiền ra sao.
Mùa xuân chưa có mưa dào,
Cũng như Đạo hạnh sắc màu chưa thanh.
Sớm chiều phủi sạch lợi-danh,
Tầm nơi chánh-giác cõi thanh đặng về.
Hỡi ôi, thấy chúng bớt mê,
Đạo mầu siêu-việt tập-đề là đây.
Tinh-thần hiệp vén ngút mây,
Vẹt cho rõ mặt tớ Thầy Hạ-nguơn.
Lòng thương bá tánh đòi cơn,

Dầu ai mua oán chác hờn mặc ai.
Chuông linh giục thúc bên tai,
Chúc cầu thạnh-trị thới-lai xóm làng.
Hiệp chung một cuộc chi-lan,
Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau.
Lọc-lừa hiểu đặng vàng thau,
Đem thân mua lấy mận đào thiên-nhiên.
Duyên lành rõ được Khùng Điên,
Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần.
Làm sao khỏi chốn mê-tân,
Đào-nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng.
Thánh-nhơn ghi sách Trung-Dung,
Hiền-nhơn thức-tỉnh biết dùng người ngay.
Hội thanh hiệp mặt vui-vầy,
Gắng cộng cố chí lòng nầy chẳng phai.
Vinh-hoa dường thể cúc mai,
Cuối mùa tàn rụi lâu dài đặng đâu.
Thích-Ca Đạo vị huyền-sâu,
Ra
ch tim xem được một bầu linh-quang.
Mảng còn tư-lự tình-tanh,
Thuyền từ tới bến thanh nhàn bớ dâu.
Hóa-công chí thiện cầm cân,
Công-bình thưởng phạt thứ-dân nào tường.
Sum-vầy chiếc nhạn sâm-thương,
Nho-văn cảm-kính hiền lương của người.
Se-sua nói nói cười cười,
Cao sâu lý-diệu vàng mười khó mua.
Trần-gian thiếu trái chi chua,
Bây giờ trái ngọt không mua bởi mình.
Tới đây cạn lẽ phân-minh,
Quyết đem chơn-lý đặng gìn Phật gia.
Tài sơ trí siển nôm-na,
Mặc tình chê ghét phận ta ta tường.
Thoảng qua mùi diệu phô-trương,
Kêu dân mau tỉnh trong trường mộng xuân.
Keo sơn đâu cật liền lưng.
Thấy trong bá-tánh nửa mừng nửa lo.
Mừng là mừng việc hay-ho,
Lo là lo việc ốc-sò trải qua.
Tỉnh tâm mượn lấy thi-ca,
Giác-dân hướng-thiện chánh-tà phân-minh.

Rèn lòng giữ dạ sắt-đinh,
Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh-thơi.
Biển trần lao-lý diệu-vơi,
Khổ tâm chắt lưỡi chiều mơi phủi rồi.
Nhìn xem tâm não bồi-hồi,
Sơ nhi đã lậu phá mồi vinh-vang.
Chừng nào kim phụng hòa-loan,
Đông Tây vô lự mới an sự đời.
Thừa vưng sắc-lịch của Trời,
Cùng ông Phật-Tổ giáo đời khuyên dân.
Bấy lâu chạnh cám ô-ngân,
Bây giờ hiệp mặt phân-trần sạ-dươn.
Dập-dồi gió kép mưa đơn,
Đau thương vì bởi nghĩa ơn chẳng tròn.
Bày ra thiên-lý héo-von,
Giấu trong tim-óc lòng son chẳng đành.
Trải qua một lúc sỏi-sành,
Trung-Ương hòa-hiệp mới đành lòng đây.
Hoàn-cầu trái-đất chuyển xây,
Gớm-ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn.
Ngày nay đạo-đức chẳng màng,
Rồi sau dẫu có tiền ngàn khó mua.
Biển sông lặn-lội hơn thua,
Tự thân tạo lấy mà mua cái sầu.
Phật, nhơn, tạo hóa một bầu,
Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau.
Thân nầy sá quản cần lao,
Miễn cho bá tánh được mau an nhàn.
Ngũ niên viễn lự cơ hàn,
Đến chừng qui phuc Hớn-Đàng mới yên.
Bao la cảnh Phật cõi Tiên,
Tòng mai liễu trúc hữu duyên khoe màu.
Ngũ vân năm sắc năm màu,
Kia qui nọ phụng lao-xao vui mừng.
Vang-vầy sấm nổ chuyển-luân,
Kiểng-tiên lộ vẽ vui mừng cha con.
Bấy lâu nghĩa nọ tiêu mòn,
Ngày nay hiệp mặt hết còn thở-than.
Các nơi liệt-quốc chư-bang,
Chúc cầu bình-trị trường-loan sum-vầy.
Bây giờ làm việc tà-tây,
Ngày sau bị khốn tội rày điêu-ngoa.
Biết khôn tìm kiếm ma-ha,
Một-câu lục tự nhà nhà bình-an.
Xa-xuôi đường sá dặm tràng,
Khó bề lui tới rỗi nhàn lao-lung.
Lo bề cúc-dục cội thung,
Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời.
Bút nghiên tạm gát đợi thời,
Chúc cho bá tánh xét đời biết ta.

Mỹ-Hội-Đông, ngày 22- Canh-Thìn

Ông NGUYỄN THANH-TÂM (tức Hương-Thân Ướng) xướng:

Bóng thỏ đàlu rạng mặt rồng,
Bống phương sĩ-tử nhóm càng đông.
Trời Nghiêu phụng múa vòng tay áo,
Đất Thuấn voi cày ruộng trổ bông.

Biển lẳng sông trong chờ lịnh chánh,
Nhà an nước trị lẽ thiên công.
Kìa ai gói-gấm lời cơ-mật,
Ức bụng kẻ hiền bớ núi sông!

ĐỨC THẦY họa:

Non Lịch rừng nhu lộ vẻ rồng,
Danh hiền bao rải khắp Tây-Đông.
Chòm ong còn múa trong the áo,
Nam-Việt giống nòi trổ nhụy bông.
Mặt đất địa cầu qui lập chánh,
Một nên Đạo hạnh lấy tâm công.
Văn nhu áo não tìm cơ-mật,
Sẽ hản việc đời hỡi núi sông!

Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn

Ông NGUYỄN THANH-TÂN xướng:

Tiết phong một võ nhứt thân khinh,
Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình.
Cực vọng nam minh dân tiếp thủy,
Tường khan bắc chỉ thạch tranh vinh.
Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt,
Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình.
Kim nhựt phùng chơn tu tận túy,
Hưu tương ly biệt não bình sanh.

ĐỨC THẦY đáp họa:

Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh,
Cố viễn hà qua kiến hữu tình.
Qui hóa ai thi hà quốc thủy,
Đài phi sơn lãnh vị thành vinh.
Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt,
Tố giả vong bang kỷ tráng trình.
Phúc họa trù phong nhiên Bích tí,
Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh.

Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn

Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN tức chín Diệm (làng Đinh-Yên, tỉnh Long-Xuyên) xướng:

Cường-khấu xâm lăng kỷ thập niên,
Vị tri đại-đức giáng, hà Tiên?
Hi-Di ngũ quí kim an tại,
Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc nhãn sa-đà tàng Bắc-địa,
Liên mi chơn mạng ẩn Nam-thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên,

Tổ-tiên cứu loạn hựu phò nguy,
Hướng thiện khử tà chúng bất tri.
Vô tránh vô tranh thiên hạ thiểu,
Toàn trung toàn hiếu thế gian hy.
Ái mao vị tiện ngô đồng phụng,
Tiết giác thâm tàng trạch thủy qui.
Bất tận tam tâm danh lợi khách,
Đáo đầu thâm mãnh niệm từ-bi.

ĐỨC THẦY họa:

Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên,
Sơn-Trung hồi giả bí danh tiên.
Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.

Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Vị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.

Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy,
Lượng trí bồi thành thử tất tri.
Võ kỷ hùng phong nhơn mạt thiểu,
Thần-Tiên tiểu ẩn cổ lai hy.
Thí-sanh tán địa liên đài phụng,
Nam-sĩ bài kỳ phục kiết qui.
Vạn vật an-ninh thông điện khách,
Nhứt trường lê-thứ kiến vô bi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn