Những Bài Sáng-tác Năm Tân Tỵ(1941) - Phần 1

24 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 39262)
Những Bài Sáng-tác Năm Tân Tỵ(1941) - Phần 1

Chúc xuân ông Thầy thuốc TRẦN-VĂN-TÂM
làm việc tại Nhà thương Chợ-Quán

Tràng pháo vang-vầy đến rước xuân,
Chúc ông năm mới chữ vui mừng.
Trăm điều phúc-lộc vừa đem lại,
Muôn chuyện nhàn-cư đến chẳng ngưng.
Tộc-họ cùng chung gìn nghiệp cũ,
Gia-đình sum-hợp giữ thường-luân.
Rạng vẻ non sông tiếng lẫy-lừng.

Nhà thương Chợ-quán, Tết năm Tân-Tỵ (1941)

"NGÀY TẾT"

Tháng lụng ngày qua năm đã tàn,
Trẻ già nô-nức đón xuân sang.
Chờ coi năm mới hên hay chẳng?
Chóng đạt công-danh kẻo muộn-màng.

Ngày tết đến rồi các bạn ơi,
Tổ-Tiên truyền lại mấy ngàn đời;
Ước ao xuân mới bằng xuân cũ,
Thanh-bạch tâm hồn cuộc thảnh-thơi.

Nầy hỡi chúa xuân ta rán chờ,
Khỏi ngày thảm lệ buổi nguy cơ.
Pháo tan xác pháo rền rang nhỉ,
Khói bốc đường mây án mịt-mờ.

Thời giờ kinh hãi sẽ đi qua,
Thế-giới trì xong cuộc thái hòa.
Chừng ấy chúa xuân thêm tráng lệ,
Huy-hoàng tục cổ của ông cha.

Thiên hạ đua nhau rằng mới mới,
Lòng ta nào thấy mới chi đâu.
Lao xao phố chợ hoành đôi tấm,
Rộn-rịp cửa nhà liễn mấy câu.
Lũ trẻ cười reo pha tiếng pháo,
Cụ già đùa chuyện lẫn năm châu.
Nào dè xuân ấy là xuân gượng,
Của buổi loan-ly gợi thảm sầu.

Lốp-bốp pháo chi nổ quá ồn,
Khắp cùng thành-thị khắp hương-thôn.
Người dư của-cải tiêu xa-xỉ,
Kẻ thiếu tiền-nong nợ mắc dồn.
Ba bữa cờ trương còn hớn-hở,
Bầy ngày nêu hạ hết lo nôn.
Thì ra năm mới như năm cũ,
Cảnh khó dân đen vẫn tự tồn.

(Chép theo bản chánh do Đức Ông giữ)

CẢNH XUÂN

Kiểng vật khoe màu đua sắc tươi,
Cành hoa hé nở tợ như cười.
Xuân về cảnh dẹp càng thêm vẻ,
Dám hỏi Đông-Hoàng tuổi mấy mươi?

Nhà thương Chợ-Quán, Tết năm Tân-Tỵ.

ĐI TRÌNH-BÁO
(Lúc Đức Thầy về Bạc-liêu ở nhà ông Võ-văn Giỏi thì nhà cầm quyền buộc phải đi trình diện tại bót cò mỗi tuần một lần, vào ngày thứ hai).

Việc chi mà phải đi trình báo?
Mỗi tháng bốn kỳ nhọc cẳng ông.
Đợi máy huyền-cơ xây đến mức,
Tính xong cuộc thế lại non Bồng.

Thứ hai bừng sáng mưa tầm-tã,
Linh đứng ngoài đường giuc-gĩa ông.
Kiếp khách trần-gian vay lắm nợ,
Để đền trọn nghĩa với non sông.

Người cười, người nhạo bảo ông điên,
Ông chẳng giận ai, cũng chẳng phiền.
Chỉ tiếc trần-gian đùa quá vội,
Chưa tường điên tục hay điên tiên.

Bạc-liêu, 6-6 Tân-Tỵ (30-6-41)

TẠM NGƯNG LÝ-LẼ
(vì nhà cầm quyền ở Bạc-liêu buộc ràng, dòm ngó)

Gặp lúc truân chuyên lắm buộc ràng,
Cảm tình bổn-đạo tiếng riêng than.
Tạm ngưng lý-lẽ trong cơn túng,
Xin chớ ưu-sầu cuộc dở-dang.

Nghĩ cuộc đời lương tâm càng cố-gắng,
Lòng ta sao rối-rắm cuộc tằm-tơ.
Vì đâu nên nỗi hẫng-hờ,
Với người tha-thiết đợi chờ ngoài song!

Bạc-liêu, 20-6 Tân-Tỵ (14-7-41)

VỊNH QUẠT MÁY

Khoa-học đời nay thật khéo cho,
Bày ra cái máy chạy vo-vo.
Tranh quyền tạo-hóa nồng thay lạnh,
Đông-Á lần hồi phụ quạt mo.

Có tiền mua lấy cũng nên cho,
Tủ sắt còn đầy còn gió vo.
Nhưng ngặt khan dầu e hết điện,
Trở về lối cũ lượm cau mo.

Cau mo chừng ấy đắt tiền cho,
Ngóng cổ thêm dài hút gió vo.
Chủ khách ngẩn-ngơ cơn nóng bức,
Thôi thì "toa mỏa" tạm dùng mo.

Bạc-liêu, 21-6 Tân-Tỵ (15-7-41)

VỊNH CON BEO ĐÁ
(để chưng tại nhà ông Võ-văn-Giỏi ở Bạcliêu)

Beo ơi, beo hỡi là beo!
Gần cọp sao mi lại giống mèo?
Ngóng cổ chờ ai đem thịt tới?
Hay chờ gạt chó cướp đàn cheo?

Bạc-liêu, 1-6 nhuần Tân-Tỵ (24-7-41)

Cho ông Hạnh, rể của ông VÕ-VĂN-GIỎI
(ở Bạc-Liêu)

Đó rán tầm đường đến cảnh Tiên,
Thú vui phong nguyệt lắm ưu phiền.
Lòng phàm rửa sạch niềm nhân ngã,
Phước Phật trau-giồi kết thiện-duyên.

Thiện-duyên ấy cũng tại nơi ta,
Hộ niệm oai linh Đức Phật-Đà.
Sớm, tối, đi, nằm, y chánh-pháp,
Thầy nguyền dắt đến cảnh Long-Hoa.

Bạc-liêu, 1-6 nhuần Tân-Tỵ (24-7-41)

VÌ SANH-CHÚNG

Vì nghiệp trần mê hay bởi ai?
Tâm, can, tì, phế, thận đau hoài (1)
Hay vì sanh-chúng còn lao-lý,
Nguyện uống cho đời chén thuốc cay.

Bạc-liêu, 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29-7-41)

(1) Lúc Đức Thầy còn ở Bạc-Liêu, Ngài thường đau ốm không thuốc nào trị được.

NGŨ NGÔN CÁCH CÚ

Đã trải hai năm dư,
Mang một túi đồ-thư.
Lòng hằng mong phổ-hóa,
Dụng đủ cách thanh từ.

Muốn khai kinh thả cá,
Trời chưa cho thỏa dạ.
Gặp buổi quá thâm u,
Đời đầy câu nhơn-ngã.

Sóng bể cuộn phương Đông,
Chừng nào mới cho xong.
Câu ấy nhơn-dân hỏi,
Phải chờ lịnh Thiên-công.

Tại sao ta lại đau?
Quyết trị liệu phương nào?
Bịnh ni là tâm bịnh,
Dễ hết được đi sao?

Bạc-liêu, ngày 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29-7-41)

MONG CHỜ

Tây-Phương chư Phật cám ta-bà,
Chuyển pháp độ đời khỏi đọa-sa.
Mong-mỏi chúng-sanh đồng mật niệm,
Vọng cầu thế-giới dứt can qua.

Can-qua binh lửa sát sanh-linh,
Khẩn bái Quan-Âm trút tịnh bình.
Giọt nước nhành dương mau tưới tắt,
Cứu đời an lạc hết giao chinh.

Lòng người muốn khỏi họa đao-binh,
Nhưng Phật chờ oai sắc Ngọc-đình.
Trị tội cho xong loài ác-bạo,
Công-đồng thường phạt hết đao-binh.

Bạc-liêu, ngày 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29-7-41)

NIỆM DI-ĐÀ

Mắt nhìn trần đỏ niệm Di-Đà,
Nguyện vái thân nầy khỏi đọa sa.
Muôn đạo hồng quang oai-đức Phật,
Soi đường minh-thiện đến Long-Hoa.

Bạc-liêu, ngày 10-6 nhuần Tân-Tỵ (2-8-41)
(Bài trên đây Đức Thầy viết ra để cho anh em tín-đồ nguyện trước khi niệm Phật).

Cho ông VÕ-VĂN-GIỎI ở Bạc-Liêu

Hào-quang chư Phật rọi mười phương,
Đạo-pháp xem qua chớ gọi thường.
Chuyên-chú nghĩ suy từ nét dấu,
Cố công gìn-giữ tánh thuần lương.

Bạc-liêu, 20-7 Tân-Tỵ (11-9-41)
(Bài nầy cũng có ở trong quyển Khuyết-Thiện)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn