Nào chửi cha, mắng mẹ lăng-xăng,
Chẳng kể đến luân-thường thảo hiếu.
Hăm đánh giết những người hèn yếu,
Hiếp xóm-chòm cô bác chẳng kiêng.
Trong gia-đình chửi rủa liên-miên,
Hết Dương-thế kêu sang Thần-Thánh.
Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,
Cõi Long-cung mời thỉnh tối ngày.
Đời ám-u tội trạng thảm thay,
Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ.
Gương tổ-phụ còn roi lại đó,
Sao không theo nề-nếp gia-phong.
Chư Thánh-Thần đâu có mất lòng,
Mà kêu réo Đông,Tây, Nam, Bắc ?
Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
Những đàn-bà khe-khắt cháu con.
Kể từ nay phải giữ cho tròn,
Không chừa dứt ắt mang tai-ách.
Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước dư,
Bằng tích ác họa-ương đeo đắm.
Ác Vọng-Ngữ thứ tư cũng cấm,
Nói thêm thừa huyễn-hoặc đủ điều.
Ghét người thời kiếm chuyện dệt-thêu,
Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.
Đời bất công mấy ai xem sửa,
Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tòng.
Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,
Mà ăn ở nói năng chơn-chất.
Phật từ-bi độ trong nhơn vật,
Là luật kinh dạy rất tinh-tường.
Nếu chẳng nghe hồn vướng tai-ương,
Chừng ấy mới kêu mời khó rước.
Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước,
Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn.
Đã tu hành đừng có bôn-chôn,
Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài cán.
Người hiểu rành mới càng thêm chán,
Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu.
Nói với ai cũng phải lựa điều,
Đừng tráo-chác cho người khinh dể.
Ác Tà-Dâm thứ năm càng tệ,
Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần.
Làm đảo-huyền tất cả quốc-dân,
Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn.
Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,
Từ xưa nay Trời đất đâu dung.
Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
Quan lấn thế dâm-ô dân khó.
Trai liều-lĩnh điều nầy nên bỏ,
Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
Gái lẳng-lơ tiếng huyễn lời đờn,
Hoa có chủ đèo-bồng tình mới.
Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi,
Bỏ những điều điếm nhục tông môn.
Đứng nam-nhi học lấy điều khôn,
Lòng trung-hiếu gìn theo đạo-lý.
Hàng phụ-nữ gương xưa nối chí,
Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên,
Cho đẹp mặt Tổ-tiên nòi giống.
Thờ Phật-Đạo tỉnh cơn ác mộng,
Thoát mê-đồ thường phóng quang-minh.
Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh,
Ác thứ sáu ấy là Đạo-Tặc.
Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
Chẳng kể công nước mắt mồ-hôi.
Phá lương dân dạ luống bồi-hồi,
Ngày làm-lụng đêm lo gìn-giữ.
Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ,
Nào đào tường, khoét vách khuân đồ.
Tội chập-chồng đâu biết ở mô,
Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
Nay đuốc huệ Từ-Bi đã rọi,
Vào thâm-tâm những kẻ gian phi.
Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả.
Ác thứ bảy Sát-Nhơn gây vạ,
Tánh hung-hăng đâm chém chặt bầm.
Chất-chứa điều hung dữ trong tâm,
Chờ đắc thế ra tay hạ sát.
Viết đến đây động lòng rào-rạt,
Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân.
Nào kể chi là đạo Quân-Thần,
Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
Lúc nguy-cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết thầy tội ấy đáng không.
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh-đệ cùng nhau xâu-xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt-nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào,
Tình nhơn-loại phân chia yểm-bách.
Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách,
Tưởng rằng mình như thế là ngoan.
Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn,
Chớ sát hại mạng người như thế.
Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
Gẫm Thánh-Thần đâu có tư riêng.
Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
Hoặc hiện kiếp làm điều bạo-ác.
Phải ăn-năn phước-điền tạo-tác,
Lo thuốc thang khẩn-vái Phật Trời.
Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả.
Đấng Thần-Minh công bình trực dạ,
Đâu ăn lo đổi họa làm may.
Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy,
Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
Chẳng biết thân còn toan chứa đựng,
Quả bất lành chưa trả vay thêm.
Cầu cho đời sóng lặng gió êm,
Đặng bá-tánh an-nhàn tu niệm.
Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,
Muốn bao gồm của thế một mình.
Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh,
Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
Thấy của người thèm khô nước miếng,
Tính làm sao lường gạt lấy đi.
Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,
Của thế trần như mật dính dao.
Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào,
Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.
Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn,
Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.
Tham tiền tài thường vướng nạn eo,
Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
Lúc tận số nằm trơ một xác,
Gẫm kim-tiền bội-bạc bất tài.
Không làm cho ta được sống dai,
Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.
Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
Lo vun-trồng cội phước về sau.
Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
Phải bố-thí diệt lòng ích-kỷ.
Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
Vật ở trần như bọt nước làn mây.
Thân Ta còn rày đó mai đây,
Của ấy cũng khi tan khi hiệp.
Ác thứ chín Hận-Sân luận tiếp,
Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
Nổi lôi đình đâu có định chừng,
Cho ta biết mà toan giữ trước.
Tánh sân-nộ thường làm bạo-ngược,
Nên loài người ở cõi thế-gian.
Giận hờn nhau thù-oán dẫy tràn,
Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
Hơn tự-đắc, khoe-khoang dõng sức,
Phải bị người hềm-khích ghét-ganh.
Thua hổ-ngươi làm chuyện bất lành,
Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
(Kiểm bài ngày 21-9-2010)