Nhìn Phật-Giáo mà tìm cái lý,
Coi tại sao ta phải tu hành.
Vì yêu dân Ta kể ngọn-ngành,
Khuyên lê-thứ làm lành mà tránh.
Cảnh Niết-Bàn là nơi cứu cánh,
Về chốn ni xa lánh hồng-trần.
Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
Nhờ hai chữ trung-quân ái-quốc.
Chừng lập Hội biết ai còn mất,
Giờ chưa phân chưa biết chánh tà.
Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc-Tòa,
Đền Linh-Khứu sơn trung chịu mạng.
Nền đạo-đức Ta bày quá cạn,
Mà dương-gian còn gạn danh từ.
Làm cho Ta lỡ khóc lỡ cười,
Khóc là khóc thương người ngu muội.
Thấy Điên Khùng làm như sắt nguội,
Chẳng tranh đương nó lại khinh-khi.
Ngó về Tây niệm chữ từ-bi,
Cười trần-thế mê-si thái quá.
Tranh với luận đặng giành cơm cá,
Khuyến-dụ người đặng kiếm bạc tiền.
Thấy chúng-sanh ghét ngỏ ganh hiền,
Theo chế-nhạo những người tu tỉnh.
Tu không tu cũng không mời thỉnh,
Mặc tình ai trọng-kỉnh hay chê.
Thương lê-dân còn mảng say mê,
Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng.
Thấy Ta lại nói cay nói đắng,
Đắng với cay Ta cũng chẳng màng.
Chừng trần-gian kiến thấy phụng-hoàng,
Sè cánh múa chào mừng Phật Thánh.
Thấy đạo-lý chớ nào thấy tánh,
Còn ẩn nơi tim óc xác phàm.
Ai biết tri việc phải cứ làm,
Sau mới biết ai Phàm ai Thánh.
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp quá rành.
Lựa làm chi cao chữ học hành,
Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo.
Việc cổ tích cần chi phải thạo,
Chuyện qua rồi kể lại làm gì.
Nếu ai mà biết chữ tu trì,
Tâm bình tịnh được thì phát huệ.
Ta yêu chúng viết ra Giảng Kệ,
Khuyên tăng-đồ cùng các tín-đồ.
Nghe cạn lời chớ có mờ-hồ,
Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo.
Trần với thế nó hay kiêu-ngạo,
Các nhà sư hãy rán sửa mình.
Nếu xuất gia ngũ-giái rán gìn,
Tu chơn chánh mới không hổ tiếng.
Cả ngàn năm nhơn tâm xao-xuyến,
Sao tu hoài chẳng thấy ai thành.
Bởi chữ tu liền với chữ hành,
Hành bất chánh người đời mới nói.
Bị tăng chúng quá ham chùa ngói,
Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng.
Phật nào ham tượng cốt phết vàng,
Mà tăng tạo hao tiền bá-tánh.
Việc giả dối từ đây nên lánh,
Bổn-đạo ôi ! hãy rán sửa mình.
Cuộc dạy đời Ta lắm công-trình,
Làm chẳng trọn uổng thay một kiếp.
Lời chơn-chánh trần hay bỏ liếp,
Mãi lo làm húng-hiếp người hiền.
Mà làm cho Ngọc-Đế thảm-phiền,
Muốn trừng-trị trần-gian thảm-thiết.
Đức Phật-Tổ tâm Ngài nhứt quyết,
Tâu Ngọc-Hoàng để Phật dạy trần.
Nên ra Kinh, Cơ-Giảng nhiều lần,
Mà dương-thế chẳng cần xét đến.
Xác trần-tục như cây cạnh khến,
Làm hiền hoài ắt phải tiêu mòn.
Đẽo với bào riết nó cũng tròn,
Đến chừng đó trông vào rất tốt.
Lũ giả-dối thường hay thề-thốt,
Nó chẳng kiêng Thần Thánh là gì.
Tâm kẻ hung làm chuyện cố-lỳ,
Chẳng có sợ mang điều tội phước.
Ghét những kẻ tu hành bốc-xước,
Miệng kêu gào chuyện phước bề ngoài.
Bước vào chùa thấy Phật lạy dài,
Lui khỏi cửa ra tay cấu-xé.
Thấy quyền-quí nó hay dựa mé,
Đặng bợ-bưng những kẻ hung-sùng.
Ta thương đời nói những chuyện cùng,
Chẳng có vị có dung kẻ quấy.
Cuộc sám-hối vô chùa thường thấy,
Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần.
Thấy dương-gian lường gạt Thánh Thần,
Mà chua xót cho đời Nguơn-Hạ.
Chữ tự hối nào ai có lạ,
Là ăn-năn cải sửa tâm lành.
Phật chẳng qua dụng chữ tín-thành,
Chớ nào dụng Hương, Đăng, Trà, Quả.
Làm chay đám tạo nhiều xá-mã,
Bay về Tây nói những chuyện gì ?
Thấy chúng tăng làm chuyện quái kỳ,
Ta khuyên mãi cũng không chịu bỏ.
Lời chơn-chánh hình như nói xỏ,
Mà không không nào có biếm đời.
Thấy lạc-lầm khuyên nhủ ít lời,
Chớ nào có ngạo chi tăng chúng.
Coi tâm kệ làm theo mới trúng,
Để lạc-lầm lắm bớ tăng-đồ !
Định tâm-thần như mặt nước hồ,
Suy với nghĩ, nghĩ suy đường lối.
Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
Ghi vào lòng sáu chữ Di-Đà.
Thì hiền-lương quên mất điều tà,
Đặng hạnh-phúc nhờ lòng cố-gắng.
Việc đạo-đức bất cần thối thắng,
Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi.
Thấy Thiên-cơ khó nỗi yên ngồi,
Thương lê-thứ tới hồi khổ-não.
Thầy lạc tớ không ai chỉ bảo,
Như vịt con dìu-dắt nhờ gà.
Phải nghĩ suy cạn lẽ mới là,
Nay gặp gốc phải mau tìm gốc.
Để gặp Phật ngồi mà than khóc,
Gỡ làm sao hết rối mà về.
Mắt nhìn xem yêu quái bốn bề,
Bởi ác đức nên không ai cứu.
Mang thủy ách hồi năm Đinh-Sửu,
Đến năm nay tái lại một lần.
Khổ ách nầy đặng thức-tỉnh trần,
Rằng thiên-định tuồng đời sắp hạ.
Trẻ nhỏ tuổi đời nầy lăng-mạ,
Bị văn-minh cám dỗ loài người.
Kể từ rày cười một khóc mười,
Kẻo chúng nó dể-ngươi Phật Thánh.
Đạo Quỉ-Vương rất nhiều chi ngánh,
Khuyên dương-trần sớm tránh mới mầu.
Để ngày sau đến việc thảm-sầu,
Rán nghe kỹ lời Ta mách trước.
Thuyền chúng nó thẳng buồm chạy lướt,
Lọt ngoài khơi mới hết hò khoan.
Tu mà ham cho được giàu sang,
Với quyền tước là tu dối thế.
Nhớ thuở trước vua Lương-Võ-Đế,
Tạo chùa-chiền khắp nước tu hành.
Đến chừng sau ngạ tử Đài-thành,
Phật bất cứu vì tâm còn ác.
Tu biết cách như đươn biết đát,
Đươn đát rành được dựa Xe-Loan.
Ai biết nghe thì sớm liệu toan,
Để đến việc như người thất nghiệp.
Phải qui căn cùng nhau hội hiệp,
Rán mau chơn mới kịp Đạo-mầu.
Sớm với chiều gắng chí nguyện-cầu,
Thì sẽ được Toà-Chương dựa kế.
Chúng-sanh thể như gà thất thế,
Phải nằm chờ tới nước bắt ra.
Thời-kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma,
Trời mở cửa Quỉ-Vương xuống thế.
Nên Ta mới ra tay cứu-tế,
Kẻo chúng-sanh bịnh khổ quá chừng.
Sau Quỉ-Vương đi đứng nửa lừng,
Thêm tên tuổi chúng-sanh nó biết.
(Kiểm bài 21-9-2010)