KHUYÊN NGƯỜI GIÀU LÒNG PHƯỚC-THIỆN
Mắt nhìn Kỷ-Mão vừa qua,
Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm.
Ruộng đồng chẳng có rạ rơm,
Trâu bò ngóng cổ nhà nông héo lòng.
Canh Thìn bước tới thiệt Rồng,
Trông cho mùa khác ruộng đồng ra sao.
Nhà nghèo dạ tợ như bào,
Vợ đau con yếu phương nào cho an.
Cả kêu cùng khắp xóm làng,
Mấy ông điền chủ cứu nàn mới qua.
Làng gần chí những tỉnh xa,
Lúc xưa thì cũng ruột-rà với nhau.
Ngày nay tốt phước sang giàu,
Xin thương kẻ khó giúp hào một khi.
Cậu cô chú bác cùng dì,
Khắp nơi thầy chú một khi hảo lòng.
Việc nhà quí bạn đã xong,
Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn.
Lão đây thân khó chẳng sờn,
Tỏ lời khuyến-khích tợ đờn Bá-Nha.
Ông nào lòng dạ hải-hà,
Đông tình bác-ái ra mà làm đi.
Giúp người đói khó nhu-mì,
Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay.
Bà nào góa bụa hữu tài,
Tiền nhiền đất rộng cò bay mút đồng.
Cơn nầy bố thí cho xong,
Để khi nhắm mắt bên chồng giành chia.
Ông bang các chợ xẩm hia,
Tiệm hàng thạnh mậu nhờ dân ruộng vườn.
Ngày nay thất bát khá thương,
Tiền nong chẳng có cơm lường cho qua.
Mắt nhìn lòng ứa ruột-rà,
Cả kêu bổn đạo ai là thiệt tu.
Muốn cho rắn đặng hóa cù,
Xả thân làm phước Diêm-phù vượt qua.
Giữ bo đến lúc phong ba,
Gặp cơn bát loan khó mà yên thân.
Phong trần ai cũng phong trần,
Được sang nhờ của người bần góp thâu.
Thấy đời lao-lý mà rầu,
Giúp cho chúng nó ngõ hầu làm ơn.
Xin quên mấy lúc giận hờn,
Ra tay tế-độ nghe dờn Tây-qui.
Xây vần trời đất tiết thì,
Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai.
Cổ kim hiếm lúc nạn tai,
Hưng vong suy thạnh bằng nay lẽ thường.
Lớn ròng nạn ách phải vương,
Muốn qua truông khổ tìm đường Bồng-lai.
Ngày kia được trở gót hài,
Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi.
Giầu sang nghèo khó cũng người,
Nên ta thương hết dầu cười hay khen.
Lòng nhơn xin khá tập rèn,
Thạch-Sùng Vương-Khải sách đèn ai ưa.
Thánh-hiền roi tích đời xưa,
Nhờ tâm từ thiện người ưa kính thờ.
Chết rồi bỏ của bơ-vơ,
Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời.
Xác phàm có mấy lăm hơi,
Hỏi vay có một mà lời đôi ba.
Của dư cho mượn mới là,
Hảo tâm bố thí ngọc-tòa được lên.
Chê nghèo, giàu nọ đâu bền,
Chi bằng bố đức lập nền từ-bi.
Con hiền khá sớm hồi qui,
Nghe lời Thầy dạy kịp thì bớ dân.
Dòm xem kẻ khó tảo tần,
Ruộng tâm sang-sớt dắt lần với nhau.
Nghèo thời cũng rán cháo rau,
Chớ đừng gian-xảo ngày sau thanh-nhàn.
Bần cùng cũng sớm liệu-toan,
Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu.
Mộ khan thần tỉnh cần triêu,
Khỏi cơn hoạn-nạn Lam-kiều được lên.
Ít ai giữ đặng chí bền,
Tu theo nước lớn ròng bèn thả trôi.
Tuy xa mà tới mấy hồi,
Đất còn lở thét phải bổi tự nhiên.
Thảm thương cho kẻ tá-điền,
Gặp cơn lúa ngập của tiền ráo tay.
No chiều rồi lại đói mau,
Gia bần trí đoản đắng cay nhiều bề.
Lo tròn cha mẹ nhi thê,
Nhằm năm lưng túc não-nề tâm trung.
Khá thương những kẻ bần cùng,
Tâm lành dư của hãy dùng vào đây.
Sột-sột nhà sau mụ vét nồi,
Ông chồng quần áo rách lôi-thôi.
Bầy con ngơ-ngác đòi xơi bữa,
Lũ nhỏ giành nhau lấn chỗ ngồi.
Khua đũa mèo mun ngờ chủ thảo,
Muỗng rơi chó vện tưởng cho mồi.
Lầm than đói khó vì tai-ách,
Hỡi kẻ sang giàu cức nạn trôi.
Nạn trôi lúa ngập đói còn xa,
Điền chủ mau mau nghĩ tận mà!
Tế-độ dân nghèo trong lúc túng,
Giúp giùm kẻ rối buổi vừa qua.
Có ăn dư huệ nhờ thân nó,
Nghèo khổ bần phu thảm dử a!
Nếu đã xả thân tầm đạo-đức,
Mở lòng bố thí ngộ thần xa.
Tỏ lời nhắn-nhủ khắp đâu đâu,
Vạn-vật từ nay luống thảm sầu.
Áo-não thương đời đa đói khổ,
U-buồn trăm họ vẽ vài câu.
Hòa-Hảo, ngày 25-2 Canh-Thìn
(Đức Thầy viết bài nầy để kích-thích lòng bác-ái của những bà giàu có ở xứ xa đến viếng Ngài).
DẶN-DÒ BỔN-ĐẠO
Tháng năm mười tám rõ-ràng,
Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo.
Xuống trần nhằm buổi nạn eo,
Gẫm trong dân-sự còn nghèo chữ tu.
Hạ-nguơn sanh-chúng ám-u,
Tây-Phương sắc lịnh vân-du Nam-kỳ.
Mượn nhằm một xác nhu-mì,
Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao.
Rất buồn bá tánh biết bao,
Nạn nguy sắp đến mà ngao-du hoài!
Viết ra giảng kệ bốn bài,
Giã-từ trần-thế lui hoài bôn-phi.
An-Nam phong-hóa lễ-nghi,
Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn.
Mảng lo chế nhạo chống kình,
Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương.
Ta đây dường thể như lươn,
Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu.
Sáu trăng Thầy tớ dãi-đầu,
Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi.
Bồng-Lai Điên dại có ngôi,
Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen.
Từ-bi ngọn đuốc mới nhen,
Giả như mở cửa mà then còn cầm.
Dân tình xài-xể dập bầm,
Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh.
Xác trần ta mở oai thinh,
Đạo mầu truyền pháp thình lình không hay.
Trớ-trêu con tạo thày-lay,
Lôi-âm sắc lịnh đòi rày hỏi han.
Cúi đầu tâu trước Phật đàng:
�Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi.
Đầu đuôi tâu lại khúc nôi,
Một trăm mới đặng ối thôi mười người!
Mãng lo cao thấp ngạo cười,
Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo.
Di-Đà nghe tấu buồn xo,
Vạn dân bá tánh đắn-đo nhiều bề.
Làm sao cửa Phật dựa kề,
Hung sùng tàn ác khó bề dạy khuyên.
Thầy khùng trò lại hóa điên,
Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ!
Tượng xưa dấu cũ còn mờ,
Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương.
Nói cho bổn-đạo đặng tường,
Dạy dân nào có gạt lường chi dân.
Chim ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót mấy lần ai hay.
Đời nầy chưa vẹn thảo ngay,
Thì là khó thấy mặt mày người xưa.
Dạy đời nào quản nắng mưa,
Ước mong bá tánh sớm ưa tu hành.
Đục trong bốn cuốn ngọn ngành,
Khuyên đời trau trỉa chữ lành cho xong.
Con người có Tổ có tông,
Học hay chữ nghĩa sao không phượng thờ?
Hiếu trung truyện tích sờ-sờ,
Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha.
Từ đây ta mắc bôn-ba,
Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên.
Vạn dân nên trọng Phật Tiên,
Dể ngươi lời dạy dọa riêng một mình.
Băc, Nam chờ đợi cuối Thìn,
Sẽ lo vận chuyển thân hình xác ta.
Viết thêm một khúc ngâm nga,
Dặn dò bổn đạo vậy mà mấy trương.
Ta dầu có cách thôn hương,
Vạn dân cứ chữ hiền lương mà làm.
Thích-Ca còn phế tước hàm,
Lầu cao cửa rộng mà ham tu hành.
Phật, tiên dụng kẻ lòng thành,
Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm.
Trí phàm như chốn sơn lâm,
Dạy dân như phá rừng cầm cho dân.
Nào đâu dân có biết ân,
Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.
Đây nầy lời lẽ rán ghi,
Thương đời nên mới làm thi khuyên đời.
Ra đi dặn lại ít lời,
Khuyên trong bổn-đạo vậy thời rán nghe.
Dầu ai tài phép bày khoe,
Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.
Lựa cho phải cột phải kèo,
Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,
Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.
Ách trời nạn nước thình-lình,
Người hung cứ mãi chống kình với ta.
Theo tài học cũ nôm-na,
Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu.
Lúc rày chưa thể ngồi lâu,
Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn.
Tín-đồ cùng các chư-tăng,
Từ rày sắp đến nói năng chọn lời.
Bớt phiền bớt não cuộc đời,
Rán nghe lời dạy vậy thời hành y.
Đạo mầu bát-chánh rán ghi,
Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn.
Luận bàn chơn-lý cho minh,
Chuyên chi xét đoán xảo tinh mới là.
Thứ nhì chánh-mạng vậy mà,
Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai.
Thứ ba tư-duy bằng nay,
Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu.
Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu,
Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay.
Tà gian tánh ấy tù đày,
Của người tham nhũng nghề nầy chớ ham.
Thứ năm tinh-tấn hội đàm,
Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan.
Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan,
Nói năng điều chánh thì an chớ gì!
Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.
Thứ tám chánh-định chớ lầm,
Từ-bi hai chữ đứng nằm chớ quên.
Ngồi dâu cũng định mới nên,
Đừng cho công việc hớ-hênh với người.
Hành y thì đáng vàng mười,
Tùy lòng tùy sức của người đời nay.
Tu nhơn hiền hậu cũng hay,
Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh.
Rút trong các luật các kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.
Thấp cao các bực chớ chầy,
Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên.
Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề.
Ít lâu ta cũng trở về,
Khuyên cùng bồn-đạo chớ hề lãng-xao.
Trì lòng chớ có núng-nao,
Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần.
Mấy lời nhắn lại ân-cần,
Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay.
Tu trì nguyện ước cầu may,
Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an cư.
Học câu hỉ-xả đại từ,
Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần.
Bôn Nam tẩu Bắc tảo tần,
Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng ta.
Xác trần ta đã rời xa,
Bá-gia ở lại vậy mà bình-an.
Kia-kia anh hố hò khoan,
Tình lang về mất hổ-han mặt-mày.
Sớm lo sắp đặt luyện tài,
Phật Trời phân định mặt mày mới xinh.
Ơn trên lượng rộng thinh-thinh,
Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không.