Giống hiền như thể gieo bông.
Nhụy đơm thơm phứt màu hồng xuê-xang.
Dân ta dòng giống Tiên-bang,
Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung sùng.
Mặc tình bá tánh có dùng,
Ai muồn nghe Khùng chép lấy mà coi.
Lấy tâm lấy trí xét soi,
Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào?
Thôi thôi dân chớ hùng-hào,
Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô
Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giư)
MUỐN RÕ ĐẠO MẦU
Đạo mầu diệt khổ có từ lâu,
Thần-Tú ra đời lại góp thâu.
Chuông mõ, sám kinh bèn cải sửa,
Xá phướn truyền-lưu lấp đạo mầu.
Niệm chữ A-Di dẹp lòng sầu,
Rán trì kinh-kệ hoặc mau lâu.
Cũng có ngày kia ta giải-thoát,
Giải-thoát thì ta rõ đạo mầu.
Tây-Phương Cực-Lạc Phật hằng-hà,
Ta rán bền lòng Phật chẳng xa.
Trong cõi trần mê còn mong đợi,
Thấy Phật trì tâm đến năm gà.
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
TRÔNG MÂY
Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa,
Ấy la tại lịnh Ngọc-tòa sai ta.
Xuống trần thấy chúng thiết-tha,
Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi.
Chừng nào mới dặng thảnh-thơi?
Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân.
Tây-Vức liên Nam hiệp định phân,
Tam giáo qui nguơn viện lý cận.
Hùng anh Phiên-quốc lai hàng phục,
Đinh Hợi đáo niên tạo thiên nhân.
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
(trong khi Đức Thầy cảm hứng)
LÝ-LỊCH
THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao sâu,
ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.
ĐẠI pháp vô-vi là chơn lý,
THẦN làm trọn vẹn khởi lo âu.
Huỳnh long tưc thế gần sanh-chúng,
Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu.
Tiên cảnh thoát-ly truyền bá kỷ,
Năng tầm Phật-lý rạch từ câu.
Oai hùm chấn động một góc trời,
Độ chúng ra kinh rải khắp nơi.
Cứu thế chẳng mong ơn ai trả,
Nương xác phàm phu ngõ đợi thời.
Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
Tự giác âm thầm kiến Tiên-bang.
BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí,
Tứ hải bất hòa khởi liên giang.
KHUYÊN SƯ-VẢI
Trước đài sen báu ngát hương đăng,
Hai chữ nam-mô ấy lẽ hàng.
Thề-sự biếng đua bề lợi-hại,
Tâm-trần rửa sạch mới siêu-thăng.
Khuyên trong sư vãi mau mau tỉnh,
Luân hồi quả báo rất công bằng.
Mang tiến xuất gia sao chẳng liệu?
Đao-đức xong chưa hỡi chư tăng?
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
XUÂN-HẠ TÁC CUỒNG-THƠ
Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt,
Thời-vận hèn dụng nhược thắng cang.
Cầu cho bốn biển bằng an,
Chúc câu lai thới xóm làng vĩnh-miên.
Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục,
Đứng trung-thần gạn đục tầm trong.
Gìn câu thủ cựu gia phong,
Gom nhành lá rụng vun trồng giống xưa.
Tơ lòng nhiều đoạn đẩy-đưa,
Mong ơn Phật-Thánh phước thừa cho dân.
Chúng lấy thuyết vô thần bài bác,
Quyết một ngày thông đạt địa thiên.
Chúng-sanh nghe thửa lời truyền,
Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm.
Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ,
Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển vang.
Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn,
Tử-Kỳ trổi giọng khải hoàn bốn phương.
Lòng chạnh cảm quê-hương nghèo-ngặt,
Các nước ngoài bán mắc hàng lên.
Ơn cha nghĩa mẹ phải điền,
Một ngày hiệp mặt lập nền từ-bi.
Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ,
Thi hết câu ái-ố gièm-pha.
Phương Nam rạng ngọc chói lòa,
Lưu-ly hổ-phách mấy tòa đài cung.
Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực,
Quân cùng Thần náo-nức vui-tươi.
Liên-hoa đua nở nụ cười,
Rước tôi lương-đống chào người chơn tu.
Thế-gian thoát chốn ngục-tù,
Thần Tiên hiệp mặt thì cù hóa long.
Mất nhìn thấy thần thông biến hóa,
Đức Di-Đà hiện chóa hào quang.
Việt-Nam là giống Hồng-Bàng,
Không còn hung-bạo lăng-loàn như nay.
Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn,
Dân hai lòng hết bỡn Khùng-Điên.
Thiên cơ biến ảo diệu huyền,
Hiệp chung tam cõi dưới miền trần ai.
Bút nghiên hạ viết bài an lạc,
Dẫu cho người dốt nát cũng nghe.
Kìa kìa con cuốc gọi hè,
Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp, khoai.
Thi tả cảnh Bồng-Lai tại thế,
Mãi chần-chờ e trễ kỳ thi.
Muôn năm Trời định khắc kỳ,
Ngặt ông thất thủ Hạ-bì khó toan.
Ta điên thuở Tam-Hoàng Thượng-cổ,
Khùng thế thời khùng lộ ngoài da.
Ghét dòng con nịnh độc xà,
Khinh-khi trung nghĩa hải hà lòng nhơn.
Đường gai gốc thiên sơn vạn hải,
Dẹp cho rồi tướng bái đàn đăng.
Tử-Nha như thể cát-đằng,
Tùng quân dựa bóng vui bằng hưng Châu.
Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu,
Lư-bồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương.
Trụ kia bạo-ác phải nhường,
Võ-vương hữu đức đường đường trị dân.
Thi rõ việc Phong-Thần trở lại,
Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương.
Con lành mau lại Phật đường,
Cùng Thầy cọng hưởng một vườn từ-bi.
Chớ nóng-nảy sân-si hư việc,
Phải đợi thời vua Kiệt hồi qui.
Xử phân những đứa vô nghì,
Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc son.
Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo,
Đừng cho loài cầy cáo lung-lăng.
Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng,
May nhờ Đại-Thánh phi đằng cức nguy.
Lôi-Âm tự đường đi chưa đến,
Nên giữa chừng kẻ mến người khinh.
Thôi thôi ta để mặc tình,
Dầu ai chê nhạo phận mình mình toan.
Hòa-Hảo, thánh tư năm Canh-Thìn
TỪ GIÃ BỔN-ĐẠO KHẮP NƠI
Canh-Thìn năm thiệt là rồng,
Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo lai.
Thánh năm Kỷ-Mão đến nay,
Khắp trong bá-tánh gặp bài Sấm-kinh.
Lời văn tao-nhã hữu tình,
Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình sai ta.
Xuống trần lão dụng khuyến-ca,
Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít bài.
Tạm đây ta mắc lui hài,
Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui.
Không đành tách gót ra đi,
Nên dùng lời lẽ từ thì bá gia.
Thiên đường lộ ấy nào xa,
Muốn cho khỏi khổ xem qua lời truyền.
Dấu xưa noi tích Thánh-hiền,
Thương trần mượn xác bút liền ra cơ.
Thấy trong bá tánh ngẩn-ngơ,
Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình.
Gẫm trong hai chữ nhục-vinh,
Xưa nay thiên hạ kệ kinh ít dùng.
Cúi đầu tâu lại cửu trùng,
Ngọc-Hoàng ban chiếu lão Khùng giáo-dân.
Gái trai lớn nhỏ ân cần,
Chùi lau vẹn mặt thì gần Thánh Tiên.
Tây-phương đua nở hoa liên,
Chờ người hữu phước thiện duyên từ-hòa.
Nhắn cùng bổn-đạo gần xa,
Ta về âm cảnh thiết-tha tâm tràng.
Đời nay hiếm kẻ nghinh-nghang,
Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi.
Lang tâm trắc-nết vô-nghì,
Nhỏ không biết nể kính vì bề trên.
Nhỏ to lời lẽ chớ quên,
Rán mà nguyện vái đặng đền ơn sâu.
Bá gia bá tánh đâu đâu,
Xem lời ta chỉ về cầu tại gia.
Có đau thì thuốc đó mà,
Dòm trong bản chữ về nhà kiếm cây.
Nay Thầy chịu lịnh về Tây,
Tạm ngưng đạo-đức ít ngày Thầy qua.
Dạo trong khắp cõi ta-bà,
Nơi nơi chốn chốn quĩ ma rối loàn.