- Lời Nói Đầu
- Kính Cùng Đọc Giả
- Giòng Ký Ức Ngậm Ngùi Với Những Năm Vắng Bóng Đức Huỳnh Giáo Chủ
- Cuộc Tương Sát Càng Lộng Hành
- Lúc Ra Đi Và Ly Biệt
- Lâm Nạn Tại Đốc VÀng Hạ Rạch Láng Tượng
- Hai Người Thóat Nạn Được Về Tại Ba Răng
- Ôn Lại Cuộc Đời Tranh Đấu Trong Hàng Ngũ Quân Đội Nguyễn Trung Trực
- Bước Sang Giai Đoạn Tạo Lấy Gia Thê Và Sự Nghiệp Vào Năm 1952-1963
- Hạng Người Cư Sĩ
- Bức Thư Ngõ
- SÀI GÒN, ngày 29 tháng 3 năm 1965
- LONG XUYÊN ngày 21 tháng 3 năm 1865
Trong giai đoạn này tôi không còn nghĩ ngợi gì khác hơn và phải đặt mình chuyển hướng mưu sinh tạo lấy gia thê để dựng gây sự nghiệp. Nhưng lắm lúc vấp phải cảnh ngộ gian truân, chẳng những không lợi ích cho thân mà còn lụy phiền cùng gia tộc.
Mặc dù đã diễn bao thảm cảnh, mà lòng tôi không ngã, chỉ tôi không sờn, nhứt diện tảo tần trong kề hoạch sanh nhai và cũng kiên nhẫn lặng nhìn sự mất còn của giang sơn đất nước, cùng liên kết các đồng bạn hoạt động theo chương trình hợp pháp để giữ vững lập trường chánh nghĩa quốc gia, đúng tiết tháo với danh phận Thanh-Niên Bảo-Quốc trong Tôn Chỉ: Bác-ái, Công-bằng và Nhơn-đạo.
Khó khăn hơn, con người của tôi dù muốn hay không cũng buộc mình vào định luật. Cùng tột đến Cha-Mẹ, Chị-Anh hết tình thương hại và: khổ sở cho một đứa Con-Em không biết ở vào hoàn cảnh nghề nghiệp nào, mà không thể hiện một việc gì được hữu hiệu, nên phải cam chịu phiền hà!...
Vì mọi sự kiện đã tạo vào thân thì: “Thân ôi phải khổ lấy thân, nhuốc nhơ phải chịu nợ nần phải mang” cùng diễn biến một thảm trạng rất bi đát. Nhưng cũng nhờ vậy mà được thanh minh cho tất cả mọi sự đen tối nơi cõi lòng tràn ngập với cảnh ngập với cảnh ngộ gian truân trong những bước:
Trường Đồ Lý Trí
Trải thân trầm bổng xa khơi
Vạt bèo trôi nổi trò đời hiệp tan
Ai xui gánh nặng ta mang
Ngọt chua bao cảnh riêng than khối sầu
Nặng lòng cho cuộc bể dâu
Gia thê ngăn cách riêng tựa cầu sông tương
Phụ huynh dạ luống tình thương
Xót lòng em trẻ gió sương giãi dầu
Một thân một chí một bầu
Một người một cảnh một cầu Lam-Sơn
Bao la bể ái nguồn ơn
Thân hèn vương vấn keo sơn chi tình?
Đoạn trường cay đắng nhục vinh
Không màng luận đến đạt kinh thông quyền
Gặp cơn túi đã hết tiền
Dù cho siêu duyệt Thánh Hiền ích chi
Thế là kiến nghĩa bất di
Lâm nguy niến cảnh nan tri vẩy vùng
Tuổi thân sanh bất thời phùng
Còn đâu tài mạng được cùng tương quan
Bao lần sự nghiệp tiêu tan
Khiến thân vấp phải gian nan khắp cùng
Chợt nhìn bóng cũ lạnh lùng
Mờ phai nét dấu hào hùng còn đâu
Hổ thầm cũng phận mày râu
Công danh sự nghiệp không đâu bến bờ
Quay cuồn mối chỉ đường tơ
Biết sao gở rối ở cơ hội nào
Giây hờn không thắc lại vào
Lắm suy cạn nghĩ thêm đau đớn sầu
Thông qua đạo đức nhiệm sâu
Rõ nguồn trong đục rõ bầu bợn nhơ
Lặng nhìn nghiệm thấy huyền cơ
Công danh phú quí, giấc mơ mộng làng
Đường đê dấu nhỏ bao màn
Sỏi sành dày đạp dặm ngàn sơn xuyên
Phải chăng nặng dấu chơn truyền?
Phải chăng đã thấm lời nguyền qui y?
Lòng đành niệm chữ từ bi
Nam nhân là chí để đi sờn lòng
Trên đời lắm dạ bưởi bồng
Ngọt chua đem lại mặn nồng ai mang
Chuổi ngày gánh chịu tam cang
Ngũ thường quanh quẩn nào an phận nghèo
Đường trơn gối mỏi gắng leo
Dốc cao ngăn cách nổi đèo còn xa
Nhẫn tâm dụng lối Nhơn-hòa
Dù cho gian khổ cũng là thẳng ngay
Đã từng nếm mật nằm gai
Cũng cam số phận phiền ai bao giờ?
Nỗi lòng trút cạn ý thơ
Vẽ trang hận khổ vẽ tờ buồn đau
Một hôm gặp trận mưa vào
Nhớ người viễn xứ phương nào cờ trông!
Canh trường đêm vắng não lòng
Diễn ra càng thắm càng nồng càng say
Sưởi mùi quá khứ vị lai
Đem vào hiện tại ít ai như mình
Không tranh không luận không kinh
Không màng không chấp không gình mặc ai
Không tài ắt khỏi mang tai
Không hay không biết không phai không phai đạo lành
Không buồn nghĩ việc monh manh
Không tham không giận không sanh lợi quyền
Không gì túng thiếu bạc tiền
Đổi thay tiết tháo mối giềng nhơn luân
Chí thành thà khổ cũng ưng.
Kính thưa toàn thể quý đọc giả thân mến! Thiên ký ức này đã từ lâu mà tôi được lưu lại vào lòng từ giai đoạn theo khúc quanh lịch sử nước nhà, mặc dù nó ở trong phạm vi hẹp của cá nhân, chính tôi rất ngại ngùng khi cầm viết viển tả từng trang và ghi lại từng lời trong nét dấu ngây thơ. Cùng chợt nhớ lại một hình bóng cũ mà cách đây không ngoài 25 năm, độ ấy tôi còn cấp sách đi học và nền nếp nho phong cũng giữ được nguyên vẹn với một cử chỉ thuần hậu.
Thời ấy, tôi sẵn gặp và hấp thụ thêm về giáo lý chơn truyền của Đức Huỳnh Giáo Chủ, khi mà ngài được phổ thông khai sáng. Hoạt nhìn con người tôi rất thích thú, thấm nhuần mùi đạo hạnh tìm thoát chốn lợi danh và tự qui-y về cửa Phật, cùng an phận thủ thường sống vui trong nghề nghiệp.
Từ độ ấy và những giai đoạn đã kể thì than ôi! Tôi nhình ngay hiện tại thì bóng cũ còn đâu và đã mờ phai từ nét dấu.
Đến đây tôi rất hối tiếc của hình bóng thuần hậu khi xưa và không còn gì hơn, chỉ đặt vào sự thành tâm khẩn kính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cùng Đức Huỳnh Giáo Chủ gia hộ cho lòng tôi sớm trở về với sứ mệnh thiêng liêng, để khỏi phụ công ơn hoằng hóa.
Tôi nguyện sẽ làm tròn bổn phận một công dân Việt Nam, một Thanh-Niên Bảo-Quốc và xứng đáng một Tín-Đồ của Phật-Giáo Hòa-Hảo.
Nam Mô Tam Giáo Qui Nguyên Phổ Độ Chúng Sanh A Di Đà Phật