6- Bốn Tuồng

16 Tháng Mười Một 200912:00 SA(Xem: 4322)
6- Bốn Tuồng
Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE

GIÁO  ĐẦU
Ngọc hải Huỳnh lâm chiếu thủy
Phụng mao Lân chỉ trình tường
Khán quốc vương Tống thất cang cường
Quang minh thị Hớn đường thượng đảnh
Quê ngụ miền Cao Lảnh
Tôi nay Ba Thới xưng danh
Từ theo Thầy học đạo minh thanh
Cửu thu mản thính danh dư tuế
 
HỰU  VIẾT
Liếc mắt ngó thiện đoan nhân phế
Nhìn lê dân sự thế nguy bang
      (Thầy  ôi)
Đạo tớ Thầy nhiều nổi gian nan
Cay đắng dạ thở than không thấu
Trách ở đời lảo ấu vô phân
Câm hờn chư quốc hương lân
Làm cho lổi đạo quân thân kia là !
      (Thầy  ôi  ! như tôi nay-di cư phế thổ
chẳng qua là)
Bước chơn ra đoái lại nước nhà
Chim anh bỏ ổ rừng già thiết tha
 
HỰU  VIẾT
   (Ai  đi)
Nở chẳng tưởng quốc gia ngay thảo
Dạ nào vong Tam bảo giáo truyền
   (Ấy là thuở trước)
Thầy ra giáo đạo vi hiền
    (Ý  làm sao)
Nay nhà gả đam phiền kết oán ?
Kiến An ngụ nở nào thiên tán
Mỷ Tây vong tâm oán thiên niên
    (Thầy  ôi)
Nước nghiêng nghèo vận khiến đảo điên
Phân ly diện sầu riêng đoạn đoạn
 
VẢN  VIẾT: Sầu riêng đoạn đoạn
    (Thầy  ôi)
Đạo quân thần tâm loạn trào suy
Câm hờn lủ nịnh khinh khi
Làm cho tôi Chúa phân ly đôi đường
 
HỰU  VIẾT: (như  tôi  nay)
Xuân tam nhựt kháng tường chư thất
Trì nhơn nhơn dạ bất tùng qui
Nực cười thay vận bỉ thế suy
Tuôn lụy ngọc ! dỉ tri phận bạc
 
VẢN  VIẾT: Phận bạc
Cám thương vì xiêu lạc bơ vơ
Trách ai đem dạ vò tơ
 
HÌNH
Thủ công của Ông Ba một tác phẩm điêu khắc độc đáo
             Ảnh của  MINH  HẠNH Nhà Láng
Miểu đường bất vọng hồi sơ hội nầy
Trách thay chư sỉ phụ Thầy
Sát gia phá tự mấy ngày xông sương
 
HỰU VIẾT
Cá lở chợ sình ươn không bỏ
Mở tiêu hành chỉ ngỏ nem tương
Uổng danh tài thượng trí văn chương
Lầm mưu kế nhà Thương tận tử
     (Thời  ai  cũng  đều)
Thường thường mục quan kinh sử
     (Dể  mô  chẳng  biết)
Trung lương cảm dỏng cùng chăng ?
Đến cơn nghèo gặp việc khó khăn
     (Việc  ấy)
Người chẳng siêng năng mà cần tăng tá quốc
Người chẳng lo cầu minh thất
Dạ bất cần danh
     (Vậy chẳng là người)
Húy tử tham sanh
Có chổ công danh nào cho tốt (kìa chớ)
Đường gai gốc trải trần dạ tớ
Néo sỏi sành lòng chớ hôi tanh
     (Thầy ôi !)
Biết no nao tớ đặng rạng danh ?
     (Hay là)
Còn ẩn sỉ giá canh khổ sở ?
     Khổ sở
Nổi sầu nầy biết thuở nào nguôi
    (Thầy  ôi !)
Dạ đành nước ngược nước xuôi
Sông mê rửa đặng mới nguôi lòng buồn
Trải ngàn xem sách vở thơ tuồng
Kìa ghe Lưu Chúa nọ xuồng ngư phu
 
TÁN  VIẾT:
Đến nay ta mới nhắc lại việc tu hành từ cổ chí kim, những là việc tu làm sao, làm sao. Hoặc là thượng trí tu, hoặc là hạ ngu tu, cho nên mới nhắc lại việc tu trước thời mới biết việc tu sau.
Thuở trước Lương-võ-Đế người tu lập bảy mươi hai cảnh chùa, đến sau ngã tử đài thiền, Phật bất ly cứu - Ấy vậy người cũng phải xét lại, Phật bất ly cứu cũng phải đó mà.
Cứu làm sao ! của thập phương tín cúng mà mình tu cho mình, ấy làm vậy chẳng vô tình lắm
Cũng như ăn cơm mấm thấm về lâu, làm người phải xét trước lo sau, tu ở đâu mà không tu chí ? Gẫm thiệt tu nay đa lý người bất ý tu tê. Tu nay thiệt rất quê, mà người gọi rằng tu giỏi, tu hay.
Tu giỏi tu hay đó mà ! Thị bất tường địa lý thiên cơ, khéo tu bá vơ mà hại thế. Ấy người tu làm sao ? Bất tri tiên đế, dối thế thơ văn Tu - Vậy mới khổ. Bất vong cầu quốc vương thủy thổ xưa cũng nhiều việc khó, nay cũng nhiều việc khó bất hòa.
Phật nói rằng: Hữu chánh, hữu tà nhơn bất sát bất hòa, thiên bất tri mạt hậu
Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu,
Người chẳng nhớ tích trước, ác tăng chùa San Hậu thiền, nó cảm sát thứ phi Nguyệt Kiểu - Ấy là thuở Tề trào lâm nguy mà sãi ác tăng ở làm vậy; ngọn rau tấc đất không đền, ấy chư tăng tu những việc chi ?
Gẫm tu thế ngu si, thị bất tri địa ngục. Ấy người tu làm sao ? Noi theo phàm tục, tâm dục lợi hòa ấy làm vậy ? Tu bất cải tà chư tăng tự thiệt đà bất chánh.
Phật trời dụng tâm dụng tánh, trung chánh kỳ minh. Người người đều chê Phật bất linh, ấy làm vậy, mà lòng hằng tưởng thế minh tích vật.
Tôi nói cho người biết lòng niệm Phật: Phật tức tâm, tâm tức Phật ấy là tà chánh tại tình
Lẻ nào dám họa hình tượng cốt. Đến ngày nay nhà Tàu chê Nam kỳ rằng dốt, Tàu rất thiệt khôn lanh !
Phật sanh nhơn hà nhơn sanh Phật. Bởi vậy nhà nam trào mắc đọa, bị nhà Tàu dấy họa bất minh, bị nhà Tàu đa kinh loạn chí đa sử loạn ngôn, người vùng chôn nước Nam-việt người chê rằng dốt nát. Người lại tống kinh, thơ tượng ảnh qua bán cho nước Nam-việt an tâm tùng lý
Người lại bày binh bố trận cho người An nan, ấy là cũng một tánh tham - người bày ra xanh, vàng đen, đỏ, người An-nam nhiều kẻ thiệt khôn  khôn mà chẳng rỏ, vùng bỏ đọa Phật mà theo Tàu.
Tàu cũng là người qua ở đậu nước mình, người dạy đặng, gẩm tình chẳng là sỉ nhục chăng ?
Người lại dạy thêm đạo minh sư ấy là một kiểu tu phi tăng phi sải ấy làm sao người Nam không cải phải cùng không ? những việc nào đều giới tượng Ông, e hậu nhựt đầu không hiệp thể.
Ấy người chê Phật Trời rằng dễ nghĩ người Nam phi lễ, thấy Trời Phật dễ ngươi chẳng lễ thân; tích thị phế phi ân, kim khán thân phi Thánh - Bởi vậy cho nên người mới : lộng ngôn loan tánh, người mới theo nhà Thánh Kim phiên.
Thuở trước là thuở Minh hoàng còn sửa trị, người còn phế vị tùng Phiên, bởi vậy cho nên, khiến ra mối nước chẳng yên người hiệp ý Tây Phiên nhà Thánh. Khiến lòng dân chúng ở làm vậy- Đạo nhà thờ đồng tánh, ấy làm vậy, người chẵng xét việc chánh tà, người căng họa hình treo tượng người gọi rằng hay.
Người Nam ăn ở theo Tây, ấy vậy, cũng nhiều người chẵng nghĩ đó ma !
Ấy là loạn sự, loạn tâm nhơn khổ nhơn bất tri thũy thổ, như ngưu mả loạn tâm, ấy vậy cũng là người đó ma.
Bất dụng trí cơ thâm, a tùng quyền nghịch nhỉ.
 
HỰU  VIẾT: (như  tôi  nay)
Nguyện cùng trời phật trọn thờ
Sanh đời trị thời nhờ
Gặp cơn loàn phải chịu
      (Thầy ôi ! như tôi  nay)
Dạ bối rối khôn toán khó liệu
Nhìn lê dân vạn triệu tử thì
      (Tôi  không  biết)
Mưu chi kế chi cứu tử bạ trần
Cơn thắt ngặt gia bần trí đoản
    (Tôi  nguyện  cầu)
Trời Phật giáng thế trợ thế lâm nguy
     (Như tôi nay)
Vô tài phép nhơn khi sĩ nhục
    (Thầy  ôi)
Chốn dương thế thầy đà tị tục
Cỏi trần gian tớ bất dục sanh
     (Tội nguyện cùng Trời Phật phen nay)
Có sống thời cho rạng tiết thơm danh
Sống như vầy rạng tiết thơm danh
Sống như vầy hôi tanh hổ thẹn
     (Thầy ôi ! như tôi là)
Lổi lời hẹn thẹn cùng non nước
Quán khách trung Thầy bước chơn lui
      (Thầy  ôi !)
Cách ly hình dạ tớ nào nguôi
Tâm vô cách nở vui phận tớ
 
VẢN  VIẾT  Phận tớ
Cám thương thầy đêm nhớ ngày trông
Sự đời trời khiến minh mông
Kẻ nam người bắc tây đông chưa hòa
Đoái giang sang lổi thửa đạo nhà
Kìa non Thới lảnh nọ tòa Thiên Thai
 
HỰU  VIẾT  (Thời)
Lòng những tưởng Tấn Tần hòa mai trước
Nào hay đâu mối nước phàn văn
      (Thầy  ôi)
Biết no nao âm dỉ báo ân ?
      (Thầy  ôi !)
Ngõ gặp thuở oán nhi báo oán
 
LOẠI  VIẾT
Hoàng thiên sanh ngã hà hại ngã
Trời Phật có hay cho tôi đến đổi nầy
Địa hậu mai ngô nhẩn hại ngô
       (Tôi nguyện cùng Trời Phật phen nay là)
Tích thiện nam mô vô quái ngại
Ta hồ tồn bại đại kiến thiên
      (Tôi nguyện cùng thiên địa thánh thần phen nay là)
Ngưởng nguyện Thánh Tiên khuyên điểm thế
Nhơn dân thọ tuế quế mai khai
 
HỰU  VIẾT: Ý làm sao ? người không)
Giả dại làm trai thượng trí ?
Vậy mới rằng đạt lý minh tâm
Cơ thâm họa diệt thâm
Oán ích trăm năm tồn oán
Thấy nổi thế càng ngày ngao  ngán
Nhìn quốc gia đa oán thiểu ân
      (Như  tôi)
Còn ở trần thân cám thương thân
     (Thầy  ôi !)
Sầu áo nảo nhựt tân thảm thiết, hà
 
THÁN  VIẾT
Ngưởng việc kiến thiên thiên kiết thũy
Đê đầu phủ địa dỉ thì tri
Lụy thảm Tôn sư qui Tây điện
Ai hoài biết diên hiện chứng minh     
Thiết nguyện bàn linh nghinh thũy thỗ
Gia bần trí khổ tổ tiên trì
Thảm thiết vận suy bi lụy ngọc
Ta hồ thân bộc đọc văn kinh
 
HỰU  VIẾT: Như tôi nay ngồi buồn
nhắc thuở trước lại mà nghe
Tận nhà Hớn Bắc kinh á vị ấy làm vậy người cũng không ngờ
Nam kỳ địa bị vây thậm khổ
     (Cơn  rứa)
Mới lấn Tần đạt thổ
   (ấy vậy mà người cũng không hay)
Thậm khổ vô vượng
    (Đến  nay)
Tây lập lại nhà thương
Quốc bất lương tận thế
    (Cơn bấy chư)
Kẻ niệm Trời phế Phật
Người niệm Phật phế Trời
    (Cho nên khiến)
Người lòng dạ đổi dời
Thiệt nhiều kẻ không dùng Trời Phật
Nghịch nhỉ hồ quái vật
Bất tri Trời phật du tâm
Nhứt tinh ngâm sổ cú ha !
 
NGÂM  VIẾT:
Thiên địa tuần huờn hờn ma quỉ
Châu nhi phục thũy tỉ kỳ tân
Phú nhuận cựu lân phân Hà nội
Tri kỳ phước tội hội huờn ngâm
 
TÁN VIẾT: Tu trì đức trí thâm
 (cơn rứa chứ)
Người dục tốc phá lâm một thuở
    (ai  đi)
Tay cắt tay bao nở tung hoành
    (ai  đi)
Ruột cắt ruột  sao đành lòng dạ !
   (Người chẳng nhớ lại thuở trước)
Địch Thanh mắc đoạ
    (Củng vì ai)
Dấy họa Tống trào  
   (Đến nay)
Của Khổng ra vào
Người trung quân ái quốc chổ nào
Mà xưng anh hào ghê ngán
     (Thời ngày trước)
Người đà ám thử
Xuất ngử sát danh
      (Thầy  ôi !)
Không sanh thành nghĩa trọng hơn sanh
Nhìn cốt nhục hôi tanh tâm lộ
 
VẢN  VIẾT: Tâm  lọ
Vái phật Trời phò hộ người ngay
Hội nầy mới biết dở hay
Trời xuôi ách nước người Tây suy rồi
Nhục vinh gẩm chẳng mấy hồi
Đố ai gánh thịnh đam bồi chỗ suy
Việc nào sự dễ bất tri
Khó khôn khôn khó đường đi đã mòn
Ai hay sống mất thác còn
Để hai con mắt không mòn cửa vương
Nổi oan ươn nhiều nổi ưu sâu
Kìa dinh Bắc địa nọ lầu Nam bang
 
HỰU  VIẾT:
Thấy sự thế dọc ngang
Tâm bất an giấc điệp
Đêm bát ngát nằm lo cơ nghiệp
Ngày xốn xang bất hiệp sức ngôn
Gấm sự thế đa khôn
Chỉ thị  cuồng ngôn loạn ngử
     (Sách có chữ)
Quân tử thần tử, thần bất tử bất trung
Ai ai đều chác nhửng việc hung
Có ai xử hiếu trung vu thất
Phụ xử tử vong, trí bất vong bất hiếu
Như người ở làm vậy thời:
Trung hiếu lưởng toàn
 
VẢN  VIẾT:
Trách ai sát phạt Phụ hoàng
Làm cho miếu vỏ khói tàn tro bay
Cam hờn a ý tùng Tây
Khúc tùng vong chúa mối sầu xây nên phiền
 
HỰU  VIẾT:
Mục kiến thiểu nhơn hiền
Đa nhơn tại vong tiền phế hậu
        (Có chử rằng)
Thiên cơ bất lậu
Vi nhơn ưu hậu tội nan
Kim đắc thế tà khan
E hậu nhựt ta mang tận khấu
Vào quán trung ngơ ngáo
Mắt mở xem trao tráo
Tâm bất cáo phật sanh
(Đến cơn thậm khổ ta mới:)
Phế hải bộ nhơn dân đang tẩu mọi
 
LOẠN  VIẾT:
Biệt từ hải ngoại khứ mang mang
Trức đáo lâm san an tỵ tử
Ta hồ hung dữ tử vô phân
Chư sự tùng tân vận ân chí
Hoàng thiên định lý ý vị ngoan
 
HỰU  VIẾT: (như ta đây)
Giúp nước chúc an
   (ấy làm vậy)
Người dọc ngang ghét ngỏ
(Tôi biết nói làm sao cho rỏ ràng đặng nửa kìa chớ
Ăn cơm chúa dạ no lòng phải nhớ
Đứng đem lòng tính việc hơn thua
Hưởng lộc vua người chớ phản quân
Đừng đam lòng trở mặt sau lưng
Mà người giết trung trực lòng ưng ngổ nghịch
Cơm Phiên quốc ngươi khen rằng lịch
        (Còn như)
Đất Nam bang cỏ mịt ai trồng
        (Ý làm sao)
Không đam chút lòng buồn
Mà người đem dạ thơ tuồng hí hởn
       (Ấy lại thêm)
Ba huê ôm dởn
      (Vui cha chả là vui)
Đào đỉ gái trai hí hởn
     (Vui cha chả là vui)
Đào đỉ gái trai hí hởn
     (Mà gọi rằng xính, rằng tốt, rằng tử tế đó mờ)
Ý ăn ở lẳng lơ
Thương kẻ dại ấu thơ đa tử
       (ấy là kẻ dại đó)
Còn già kinh sử thế nào?
Mặc ý người đi thấp trèo cao
Bực nào giỏi làm sao cho phải đó thì làm
Hiếm hiếm kẽ bán vàm
Người ăn làm ít thiệt
     (người tính những việc lắc léo, bắt con nhà nghèo làm tôi, làm mọi, người rằng ngoan)
Hiếm kẻ giàu sang
Lương công cướp của thế gian đà chẳng dể
Gia bần hửu lể, phú quới thể khi
Phú quới lể nghi, gia bần tri đạo tặc
     (Như tôi nay)
Trông thơ nhạn hồi đô vắng bặt
Đải tin ngư dị tặc khởi loàn
      (Tôi cũng như)
Cá khô hang nằm chịu võ vàng
     (Chẳng khác chi)
Như chim mỏi cánh dặm ngàn bay không nổi
      (Như tôi nay)
Dạ chí dốc ra oai cầm chổi
Nguyện thiên tri thay đổi vận suy
      (Thầy  ôi !)
Biết no nao cố thổ vinh qui ?
     (Thầy  ôi !)
Biết bao thuở tận suy phùng thạnh ?
 
VẢN  VIẾT: Phùng thạnh
Dạ bao nài đói lạnh tồn vong
E thôi đại bại cuồng phong
Biết là thân đặng hóa long hay vầy?
Gian nan sau tớ trước Thầy
Mưa tuôn lạnh lẻo chầy ngày chẳng an
Quân thần nghĩa khí trung cang
Kìa tôi ái quốc nọ gian phản trào
 
HỰU  VIẾT: Thuở quán trung sư phụ ra vào
   (Thầy ôi ! đến nay)
   Cô quạnh ngày nào thấy mặt ?
VẢN VIẾT: Cô quạnh ngày nào thấy mặt
        (Thầy  ôi !)
Đạo tớ thầy trực trặc kheo khư
Nào đành bất túc hửu dư
      (Thầy  ôi !)
Bất thuần thiên địa kheo khư mối lành
Thầy ôi ! như tôi đến cơ hội khổ nầy là,
Nở lên non hái trái cho đành
Hải thâm dấu để ngọc lành tay thâu
Dạ ưu sầu ngồi bực cầm câu
(Ý làm sao bực hẩm sũng sâu mà ít cá voi râu, tôi chẳng biết có người ở đâu)
Câu thời câu vận cạn sâu xem tường
Lở đôi mai trái mối tơ hường
Kìa sông Thánh-Thũy nọ đường thiên-môn
 
HỰU  VIẾT:
Nhửng học khéo học khôn
Học theo môn đàng điếm
      (Những việc đó thì hiếm, có thiếu chi)
Những theo kẻ ngu si
Học từ bi ít có
Xem việc đời thấy khó
     (Khó vậy mà dể là dể làm vầy)
Con có cha tớ có thầy
     (Cơn mầng rứa mà người)
Chẳng học rày niệm Phật
    (Ấy miệng niệm Phật chẳng tốn tiền bao nhiêu đó mà)
Nam mô Phật từ bi
Kể làm chi việc dử
Đạo vi thần tử
Thì phải giử hiếu trung
       (Nhưng là)
Cũng có nói hung
Nói hung lời trung chánh
Chớ lung lăng bạo tánh
Mà phế Thánh vong Hiền
    (Làm người xử thế thời phải)
Vọng tưởng nhơn tiền
Mới thương hiền vu hậu
     (Người nghỉ lại đó mà coi)
Lạt lẻo đạo lành tôi cậu
     (Ấy là người)
Không lo sự hậu nem tương
Một nắm muối điểm sương sương
Không nem tương lạt lẻo
 
VẢN  VIẾT: Lạt lẻo
Ớt cay nồng thịt thẻo kho tiêu
Trương bườm bao quản gió xiêu
Nới dây trục hạ gió hiu thẳng lèo
Dắt dìu nhau xuống dốc lên đèo
Lâm trung vắng vẻ thoái nghèo sông mê
Trách bất tường xúm xít cười chê
Dạ nào trái dạ u mê phản tình
Chí bất lương phá miểu tan đình
Kìa ai đó một mình bơ vơ
Tu minh lý tri cơ
Niệm hồi sơ mỹ lộc
Người muốn nên cố tình ăn học
Thời mới tri đắc ngọc kim
Trào tắt trí kỳ nghiêm
Quí đại nhơn khiêm nhượng
Phải khẩn nguyền cung thượng
Lòng kỉnh trượng Hoàng vương
Cá thác rồi không muối sình ươn
Người bỏ xác, Trời Phật không thương sa địa ngục.
Ví chẳng khác cũng như cày mục
Thiếu việc nhà khó đục trính xiêng
 
VẢN VIẾT: Nổi sầu khôn ngửa khó nghiêng
    (Thầy ôi)
Ai vui cười đó sầu riêng lòng phiền
Đoái khắp nơi ít thấy người hiền
     (Khó cha chả là khó)
Khó thời chịu khó chớ phiền người ôi
 
HỰU  VIẾT:
Gẩm sự thế bạc vôi
Niềm chúa tôi chẳng kể
Mẻ một chút muốn làm cho bể
Khó không dành việc dể hằng tham
      (Sách có câu)
Thất hiếu hửu tam
Đường danh lợi ai tham trối kệ
    (Như tôi ngây dại làm vầy chớ)
Tâm sở nguyện tử tôn mưu vệ
Đường nên hư số hệ tại Trời
Khẩn nguyện cũng cạn lời
Vái Phật Trời độ thế
Thơm chín điểm cớ sao bán ế ?
     (Tôi xem người xa đó lắm)
Ý làm sao sự thế không thèm
Cay đắng ấy rượu hèm
Mà người thêm chép miệng
Uống ba chén gây ra nhiều chuyện
Phật trời nào ứng hiện độ cho ?
Tỉnh rượu rồi người mới đi lo
Lo những đồ vật thực ăn uống say no
Rủi quá độ nằm co nhắm mắt
Nghỉ nhiều đường gay gắt
Gẩm lòng bắc dạ nam
     (Thầy  ôi !)
Chốn am-vân ít kẻ cam thường
Trường công sở bất tường hương lý
       (Thời thuở đặt để)
Tam nguơn tứ quí
    (Nay phân)
Nhị lý thường hành
Phải chát sửa việc lành
Chớ mua dành bán giựt
Đời đa lý luật
     (Thời)
Nhiều cực sướng chi
    (Phụ-vương ôi !)
Ai hoài phụ tử phân ly
Uông uông lụy ngô nhi thống khốc, hà
 
THÁN  VIẾT:
Ta hồ Quỉ-Cốc lụy tiên-sanh
      (Phụ-vương ôi !)
Vọng khán Phụ hoàng vô tranh tượng
Ngô sầu cung Thượng trượng thâm tình
     (Phụ-vương ôi !)
Hồ phách Hoàng-thiên bình đẳng nguyện
Kiến thiên kiến diện hiện dương trần
     (Tôi nguyện cầu Trời Phật Thánh Thần
                                      cứu độ chúng sanh)
Cỏi thọ anh linh Thần cảm chiếu
      Đền nay Phụ-vương tôi quá-vảng đi rồi còn tôi ở lại đây
Nhơn nhơn thị tiếu tiếu nhược thân
 
HỰU  VIẾT: (Như tôi nay)
Trổi gót hài ra chốn hương lân
Khán bổn thị du thân lả chã
Trần dương thế luân hồi trả quả
Thị hung đồ bất khả tái sanh
      (Ấy làm sao mà người không sợ không sợ, a)
Nhửng, nhửng việc đua tranh
Chẳng phải kẻ giá canh mà chuyên nghệ
Mai cúc trước thẹn cùng lan huệ
Hồ nhung cung huynh đệ vầy đoàn
Chỉ thị thế bất tường
      (Ấy vậy mà)
Người dám lập trường độ thế
     (Tôi nói thiệt)
Gánh thơm này dầu ế
    (Thời)
Chợ Tân Huế cũng mua
Bán cho ngọt không chua
Người bán mua có phép
Nào nào ai có ép
Người giử phép ở đời
Trời tri thức tuổi Trời
Phật tri thời tuổi Phật
Lo cho bề nhơn vật
Lòng không tưởng Phật Trời
Ham ăn nói nhiều lời
Mà rả rời thân thể (nào có dễ chi kia)
Nay tuy ở ngoài bìa
Mai cũng về chốn củ
Chớ ham đường lợi tăng gia ngủ
Mà người bất thủ trung lương
Ở làm sao trời Phật yêu thương
Bằng ở vậy oan ương khổ sỡ
       (Tôi nghĩ thiệt)
Nhiều đường gây trỡ
Sầu nầy tích chỡ muôn xe
Nói lành ít kẻ muốn nghe
Khó chẽ tre mà đương bội
     (Ấy làm vậy)
Chẳng biết đường phước tội
Dạ người lặn lội trải trần
Đàng điếm có rần rần
     (Mà)
Thánh thần vô tự xử
Vô quân bất ngử
Vô tử bất truyền
Chẳng thấy kẻ tầm hiền
Thậm trách phiền yêu quỉ
      (Ấy làm sao)
Mà người chẳng nghĩ
Tiền tỷ hậu ty
Biết biết mấy khi
Không không đi trách
     (Hay người chê)
Nói xàm không trúng sách
Bất trúng cách nhơn
Sự sự nan phân
Nhơn nhơn hửu chúa
Việc chúa phải làm
Ăn cơm phải múa
Việc chúa phải làm
Vắng vẻ tiếng đàm
Hai hàm khít rịt
Cố tình quan lịch
Thượng tịch hạ thần
Bất luận phú bần
Thiện trần duyên an hưởng
 
VẢN  VIẾT: An hưởng
Đạo quân thần vỉ dưởng nhơn dân
      (Trời phật ôi ! có hay cho tôi lâm cơ
 nguy biến này chăng ?)
Trước phân đạo nghĩa Ông Thầy
Phận tôi làm tớ theo rày cậu Hai
     (Cậu ôi ! là cậu ôi !)
Đứng làm trai hai vai gánh nặng
Chuổi bồ-đề lội lặn khó theo
     (Cậu ôi ! xét soi bổn phận tôi làm đổi này)
Đá cheo leo lên eo trợt trạt
Nghỉ nhiều lần xiêu lạo trào đô
     (Tôi đây đạo nam mô chẳng phải đạo gia
tô mà người phòng ngại)
Tích hiền lương nam mô Bồ-Tát
       (Tôi e là)
Loạn ly này xao xác bốn phương
Trả hờn cho tạn mặt nhà thương
Phật suy người lại chẳng thương hại nhồi
 
HỰU  VIẾT:
Thiệt khó đứng khó ngồi
Khiến bồi hồi ngủ tạng
Xe chích bánh xuồng câu mắc cạn
Lưới túng tùng hết Trạng Nam bang
       (Nếu vậy thời)
Mặc sức dọc ngang
      (Lẻ như vậy)
Tiêu tan vô số
       (Quẻ «diệc» bói rằng)
Thìn Tỵ xuất long chiếu cố
Vận thời tráo thố hoán miêu
      (ấy vậy mà)
Không lẻ xử tiêu mà tiêu mới lạ
Bàn điềm ấy cận kỳ nhựt dạ
E nhơn dân thọ họa bất an
Điềm bàn thiệt tiên tan
Người thiệt gian lâm nạn
    (Đến ngày nay có trạng chớ chẳng không)
Có trạng thới trời cứu nan người lành
Ai có kiếp tu hành
Thời gặp lành khỏi đọa
Nhóm một chợ ít quen nhiều lạ
     (Thầy  ôi !)
Thơm để đây trong dạ lo sầu
Chẳng ai mua cúng Phật vọng cầu
Bàn Phật hiện ngồi sầu vắng vẻ
 
VẢN  VIẾT: Vắng vẻ
Chổ bàn thờ chẳng kẻ vào ra
Lập tình phụng cúng bá gia
       (Người gọi tôi chẳng phải thờ phật rằng thờ ma)
Vô tình cho kẻ lại qua chê mình
Khéo dối thay am-tự miểu đình
Kìa kìa tăng chúng độ tình thiếu chi
        (Thầy ôi ! người thấy tôi thời đoạt vận suy mà người khinh khi đó)
Phát qui ý bất trì Trời Phật
Người gọi rằng quí vật bợ nưng
Cát bồi đi chẳng lắm chưn
        (Thầy ôi !)
Nước nghèo không kẻ đở nưng nước nghèo
Dắt ra sông rồi dắt lên đèo
       (Thầy ôi ! là Thầy ôi !)
Hết cơn bỉ cực còn nghèo về đâu ?
Biển bao sâu còn thả sợi câu
Vận thời, thời vận tới đâu bớ thầy ?
 
HỰU  VIẾT:
Chẳng phải ở chổ nầy
       (Ấy tôi chẳng biết làm sao mà phân)
Tá điền tân tùng ngụ
Than thở bấy chê vản dụ
Tri kỳ thượng phụ tỏ phân
Chắc chắc việc tuế tân
Hườn huờn phân nhản nhục
       (Tôi e cho người ở đời)
Diện phục tâm bất phục
Tâm nan dục sự nan
Lánh khỏi chốn dương gian
      (Tôi e a)
Tội đa mang địa ngục
Gông trống còng xiềng xử tục
      (Ý người sao)
Bất ưu địa ngục khảo tra ?
Đoái thấy tường kẻ khóc người la
Sa ngục lạc mẹ cha nào chịu
Ở dương thế phải toan lo liệu
Việc này nay quả báo nhản tiền
       (Không để chịu khó người ơi !)
Trách ở đời bất luận chúa tôi
Nhơn phi đạo lòng thôi chẳng nghỉ. a !
 
BÀI  VIẾT:
Kỳ huê linh lạc trường lưu thủy
Kiến chúc san hà vỉ tuế mai
Kiến chúc san hà vỉ tuế mai
Hưởng thọ huờn trai lai phục quốc
Cầu an gia thất quốc bất nan
Cầu an gia thất quốc bất nan
Bình tịnh quân thần an dân thứ
Phước tài thiên tứ thứ dân lương
Quốc thới dân khương trương đế thiệt
Thuận hòa nhựt nguyệt thiệt tùng tâm
Thuận hòa nhựt nguyệt thiệt tùng tâm
 
HỰU  VIẾT (Như tôi nay)
Cuồng trí ý ca ngâm
     (Tôi e là vầy)
Bất hiệp ý nhơn tâm ố ngử
Nhơn đa kinh sử
Tri ngử văn chương
      (Tôi e lòng người)
Bầt hiệp ý chẳng thương
Ô ố nhơn lương bất thuận
Thì ai ai cũng ngu tình tri luận
      (Ý làm vậy, nghịch cùng chăng, thuận cùng chăng)
Bất cầu nghịch thuận nhơn gian
Tôi e nổi đào hang khó trốn
Khéo làm việc hoành hành nhiều tốn
       (ấy làm vậy)
Mà nhiều tốn vô căn
Chẳng lo bề trước cúng sau ăn
       (Dầu có cúng đi nữa)
Xúm lại lăng xăng
Thiệt không căn niệm tưởng
        (Thầy ôi !)
Bao nhiêu dấu gởi về cho Tôn trưởng
         (Thầy ôi !)
Tớ nào hay huờn hưởng Tây phương
         (Để cho tôi ở lại đây)
Ở lại đây chịu chốn oan ương
          (Thầy ôi)
Thương thương tớ cứu cho khỏi vương lưới nhện
 
VÃN  VIẾT: Lưới nhện,
Tớ vện vằn, vằn vện khó xem
        (Thầy ôi !)
Tớ lắm lem thế xem Thầy dở
        (Thầy ôi !)
Đến cơn nguy nạn nầy Thầy thở lớ than
Tớ hiển vang Thầy sang trọng cả
Hội nguy này nhồi nhả lao đao
        (Thầy ôi !)
Tay cầm dao cắt sao đứt ruột
        (Thầy ôi !)
Sống ba-đào đường luột thắt eo
Tớ khó theo trèo leo trợt trạt
        (Thầy ôi !)
Hạc sa nhành tớ bạt Thầy ly
        (Thầy ôi !)
Tớ ngu si sầu bi xiết kể
        (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Đội ơn Thầy biết để bao cao ?
Gió sóng xao làm sao mặc sống
Thân giải dầu thác sống nài chi
        (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Đoái cung ly sầu bi Tây điện
        (Thầy ôi ! là Thầy ôi)
Biết bao giờ kiến diện Tôn sư ?
 
HỰU  VIẾT: (như tôi)
Lửa vùi ấm lòng lư
     (Ai đi há)
Dám tư tình tư sạ
Những việc củ coi sao rằng lạ
Lòng giống lòng khác dạ giết nhau
Chẳng dò cạn dò sâu
Biết chổ đâu rằng phải
Nhơn nghỉa cửu trường trọng tải
Làm người biết phải khổ tâm
Đắc tri thức lục nhâm
Phòng tri thâm lục giáp
Ngôi bửu-điện ngộ kỳ vạn pháp
Trí nhơn nhơn lục giáp tồn vong
Đắc đắc lý tri thông
Triều hửu công tắc thưởng
Hưng Thới chưởng đại thôn
Khắn chư môn hương tiểu
        (Như tôi nay là)
Từ thuở phụ tồn thượng biểu
Đến ngày nay đại tiểu hằng chê
        (Như vậy thời tôi)
Quê thiệt rất quê
Thọ sỉ nhục hiền thê chê rằng quấy
       (Như tôi nay)
Người không rõ Phật trời ngó thấy
Gian ngay này phải quấy chiếu tri
Tữ ý người ta chẳng nói làm chi
Vỉ ngô tử dể khi thậm nhục
       (Như tôi nay)
Sầu áo não dạ nguyền lánh tục
       (Tôi chẳng thấy căn quả làm sao)
Sống ngẩn ngơ trong đục bất tường
       (Thầy  ôi !)
Xác Tiên sanh còn gởi đất vườn
       (Thầy  ôi !)
An linh cửu minh đường trở lại
 
VẢN  VIẾT: Trở lại, (Thầy  ôi !)
Bỏ một bầy con dại chít chiu
       (Thầy  ôi !)
Đại chít chiêu thiên Nghiêu Đế Thuấn
Đứng anh hùng trên chứng dưới an
         (Thầy  ôi !)
Muốn sửa sang cho an không phép
Hát không đào mình kép khó coi
Lụy sầu Trời Phật xét soi
Kìa ai vạch lá móc moi nhà mình
Linh đinh sáu bảy thoàn tình
Mười hai bến nước sửa mình đặng không
Mắt ngó trông phép Ông Tây trả
Cám thương vì hai ngả hiệp tâm
Thương thầm một đạo mười lăm
Phật Trời thường dụng chánh tâm nghi hoàng
 
HỰU  VIẾT:
Xưa dại dột họ Hàn
Nay nằm đàng họ Nguyễn
Vái nước nhà miên viển
Cầu bốn biển vầy nên
Trước an phận bề trên
Sau đặng nên bề dưới
Cây khô héo nhờ trời Phật tưới
Vậy mới rằng bề dưới tưởng bề trên
        (Người  ôi !)
Nở lòng nào sớm vội tối quên ?
Sao kiếm đặng việc nên sang cả
 
VÃN  VIẾT: Sang cả,
Trách ai làm rời cả hai phương
Cam hờn người ở bất lương
Chúa còn ngồi đó dạ trương anh hùng
Trách ai mở tượng treo cùng
Chơn dung thờ đó bất dùng tâm can
Trách hờn mấy đảng tã gian
Ngày nào khôi phục mổ gan mới đành
 
HỰU  VIẾT:
Chim léo luống trên nhành
Ăn trái lành mà chết
Nhọc nói ra câu kết
Việc sống chết không hay
Học ít chử cầm tay
Bằng không ngay mất vốn
Việc học hành chẳng tốn
Của cúng chúa một vốn mười lời
Ít có kẻ xét đời
Nhưng ham lời trước mắt
Khéo khéo đua chen trào Tây tặc
Đừng đừng sanh giặc đấu tranh
Trào gia nghị xưng danh
Nguyễn Thới Khanh Thiên Đức
Sắc lịnh Thánh hoàng phong chức
Thọ ơn Thiên Đức Thừa Luông
       (Như nay tôi)
Cám Vỏ hoàng lụy nhỏ uông uông
Hờn lý luật đường truông vong phế, nọ,
 
LOẠN  VIẾT:
Phụng lịnh Hoàng gia tra xét thế
Thừa hành Phiên đế kế Khổng Minh
Dỉ lực âm binh chinh pháp diệu
     (Tôi nguyện cùng Trời Phật phen nay là)
Hộ tùng vạn triệu điệu binh thần
Tận ý ân cần Thần trợ lực
     (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Cơ đồ trí trực lực tồn năng
 
VẢN  VIẾT:
Nổi khó khăn không ăn có chịu
     (Thầy ôi !)
Người ở đời lo liệu nhục vinh
Vận còn nghèo chinh lở chiến chinh
Thầy lâm tai họa tớ vinh chi rày
Nổi tử sanh việc tớ như Thầy
Tu trì giữ đạo chờ ngày khương ninh
       (Thầy ôi !)
Bất xuất chinh hao binh tổn tướng
Phép Phật Trời sung sướng lo chi
Niệm từ bi giặc chi cũng sợ
Vái cầu Thầy tư trợ chúng sanh
 
HỰU  VIẾT: (Như tôi)
Cá mắc lưới lội quanh
Người khôn lanh nhảy ngược
           (Thời)
Giỏi chi bấy kình nghê sủ vược
Dạ ham ăn mê trược đọa thân
Trải thịt khắp thôn lân
Thị thiền đều phân thực
Phú quới chưa từng chịu cực
Thường hành ẩm thực no say
Gặp việc khó khoanh tay
Mới biết nay việc khó
Xưa chưa từng việc đó
Nay mới tường việc khó là đây
Phế gia thất chạy ngay
Đoạn phân tay giai ngẫu, nọ !
 
LOẠN  VIẾT:
Hưu khứ hưu hành hưu bôn tẫu
     (Chạy bớ các người chạy)
Mạt căn mạt kiếp cẩu ngưu tiêu
Ngộ trận hỏa thiêu tiêu táng địa
Niệm lia niệm lịa  địa bất tri
Tận tử ngu si phi thất phách
U mê bất trách phách tận thân
Biệt liễu hương lâu phân phân bại
Ta hồ ngộ hại dại bất tài
 
VẢN  VIẾT:
Đố ai biết mổ nằm dài ?
Người trong Trung quốc hay ngoài càn khôn
Cam hờn trợ ngữ trá ngôn
Mấy khi tầm đặng người khôn tri đời
Đố ai biết khắp trong trời
Thượng thiên có một dưới đời không hai
Ít ai trí mỏng tai
Nghe lời chiều tối rạng mai nên người
 
HỰU  VIẾT:
Bớt bớt nói vui cười
Chưa phải người thông thả
Trời gió vật bèo trôi ba ngã
Sóng chập chồng rời rả từ tai
Chổ mất còn họa phước về ai
Sao người chẳng trông mai nhớ tối
 
VẢN  VIẾT: Nhớ tối
Dạ thối thầm ôm gối tay không
Sang giàu bọt nước mùa đông
Phù dung sớm nở tối không trông còn
Mai huê rớt nhị hao mòn
Cửa thiền cúc trước xem còn xêu xang
Chốn vương quan giàu sang rực rở
Kẻ nịnh thần mắt cở cúi qua
Phước lành nhờ đức Tiên gia
Đến nay thấy áo mặc qua khỏi đầu
 
HỰU  VIẾT:
Kiến nhơn loạn ưu sầu
Người chẳng phải bí bầu
Dộp nụ đầu còn hầu trái khác
Chẵng phải loài cỏ rác
Mà hồn xác bỏ rơi
      (Xinh  a !)
Xinh xinh bấy thảnh thơi
Rồi mệt hơi rút cổ
Tiền bất hạnh Nhan-hồi nước Lổ
Hậu Nam-kỳ nước trổ Thần-Đồng
      (Ấy làm sao)
Mà chẳng suy lòng
Để bịt bòng trong dạ
      (Thời)
Nam-kỳ địa hàm oan chịu đọa
Bắc kinh vương gây họa từ đây
Phật trời chỉ sửa người Tây
Qua trấn quốc tới nay chưa bản
Chớ chớ gây thù lập đảng
Đừng đừng trương bản đăng khọa
Việc nước nầy vọng lịnh Hoàng gia
Độ sanh tử trào ca tồn thất
 
VẢN  VIẾT: Tồn thất
    (Phụ hoàng ôi !)
Dạ bao đành gia thất sửa sang
Nổi gian nan héo gan teo ruột
    (Thầy ôi !)
Dây xích nầy thầy buộc khóa đôi
Rũi thôi thôi làm tôi khó mở
Cúi lạy Thầy giúp thuở rối tơ
    (Thầy ôi ! phải chi tôi)
Dạ lẳn lơ buột sơ sợi luột
Xuất thơ bài chưa thuộc Thầy ôi
      (Thầy ôi ! là Thầy tôi)
Đạo chúa tôi dễ thôi lòng tớ
Dấu tích Thầy dạ chớ quên đâu
      (Thầy ôi ! Như tôi nay là)
Mảng lo âu sông sâu nước yếu
Đạo tớ Thầy toàn hiếu vẹn trung
      (Thầy ôi ! như bổn phận tôi nay là)
Dạ cúc cung thủ trung thất hiếu
Bốn lạy Thầy nước yếu xin thương
       (Thầy ôi !)
Nỗi oan ương tào khương lước mạnh
Mối đạo lành hiếu hạnh ít ai
 
BÀI  VIẾT:
Nhựt nguyệt song khai hề mai phục
Hề mai phục
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
Kỳ Hương ý dục tị tục trần
Cầu được linh đơn hề thần sái
Hề thần sái
Trừng chim bát quái ai lưỡng nghi
Trừng chim bát quái ai lưỡng nghi
Cầu Phật thức tri hề bi lụy
Bất bình cầu trị thị linh thông
Bất bình cầu trị thị linh thông
 
VẢN  VIẾT:
Thương rằng Thầy Nghĩa cho Ông
Cậu An ra dấu tớ trông nghĩa Thầy
      (Đứt ruột đứt gan tôi đi mà thôi)
Chốn Kim Cang Thầy an giấc điêp
       (Còn thân tôi rày)
Bỉ Thới nầy cơ nghiệp lao xao
Muốn lên cao nước ao cạn rạch
Thịnh thời nầy nhẹ tách đường mây
Dặm hòe thơ thớ muôn cây
Kìa hương Hưng-Thới Mỷ Tây điện đền
Dân an vua trị cho bền
Nơi nơi lạc nghiệp điện đền sung vinh
 
HỰU  VIẾT:
Trời Phật giúp pháp linh
Quan trị ninh cọng lạc
       (Như tôi nay)
Sầu tâm nội quân thần bất đạt
Dạ thỡ than xiêu lạc hớn hồ
      (Thầy ôi!)
Nghị cơ đồ Tần cũng cơ đồ
      (Thầy ôi !)
Nghị vong quốc Tần bang Hồ thất
      (Thầy ôi !)
Đường sanh tử Phật đành giấu cất
      (Thầy ôi !)
Nẻo nhục vinh gia thất bất tường
      (Thầy ôi !)
Mắc mỏ thay nước ngược vị thường
     (Trời phật ôi ! đến ngày nay mà)
Trời Phật khiến bất tường thiên lý
Nở nào để tớ tu ngu ý
Đau lòng sầu thiên lý vị nhiên vị nhiên
     (Thầy ôi)
Hư nên bất điểm cùng khuyên
Kẻo mà lòng tớ sầu riêng mỏi mệt
 
VẢN VIẾT: Mỏi mệt  (Thầy ôi !)
Gấm nhiểu nầy Thầy dệt Long Lân
Phụng hoàng trình tố ân thân
Kìa nơi Hớn hải nọ ân lâm Tần
Kiến bò quanh miệng chậu xây vần
Thân tôi như nhộng đương lần mối tơ
Dạ ngẫn ngơ cuồn tơ thắt gúc
Cửa ngô thiền chen chút người ta
Chợ Ma ba bước ra ngó thấy
Chử mực đề giấy trắng Bắc kinh
Chử trung trinh nam linh nử thính
Sự dị thường bất tín bất minh
Khuyên đệ huynh sử kinh đặt để
Nghĩa lý ngoài khó dễ bất thông
Cam hờn chế lễ Văn Công
Thọ mai chế lại lỗi trong lục hình
 
HỰU  VIẾT:
Cam hờn việc lộng tình
       (Ấy làm vậy)
Mình hại mình khúc túc
Thế cậy đa văn đao bút
Giết nhau cả lúc khúc tùng
Cứ kinh sử tạm dùng
       (Ấy vậy)
Mà hại anh hùng khúc túc (cho chớ)
Thêm sách xem nhiều lúc
Ngày hung kiết túc đa
Chúc việc quỉ việc ma
      (Ấy làm vậy)
Mà hại hại người ta tùng lý
Thế việc đa nhơn mưu trí
Noi theo kinh lý làm đầu
Hậu hiền chế bất cầu
Thị ưu sầu kinh sử
 
VẢN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Bất tham sanh hề vô húy tử
Đứng anh hùng phải giử niềm ngay
       (Thầy ôi ! như tôi nay là)
Muốn xây vạy lập ngay đam lại
Bỏ dại khờ trở lại người khôn
Cảnh quyền môn thế Tôn lập đạo
Dạo non Thần Thánh tạo tinh minh
Phế sử kinh tâm linh thơ biện
Trước xem đèn Tây truyện soi gương
Vùng vằng nửa ghét nữa thương
Nổi sầu nhứt nhựt vô vương đảo quyền
Cám thương trên nghĩa dưới Hiền
Cây tươi lá héo đeo phiền từ cơn
 
LOẠN  VIẾT:
Viển bộ làm sơn chơn bộ bộ
Ta hồ nhi ngộ lộ phùng tiên
Thiên tứ kỳ duyên khuyên điểm lực
Anh hùng tam bực diệu thuật nan
Châu-đốc, An-giang mang nạn cả
Luân hồi báo quả giả bất tri
 
VẢN  VIẾT:
Nổi sầu bi Phật ghi thảm thiết
Con một nhà bao nở giết nhau
Dạ đành phú quốc ngày sau
Bây giờ bịnh hoạn ốm đau thương người
Khóc than nước mắt miệng cười
Nồi da xào thịt thương người trơ trơ
Than thầm quí tại hồi sơ
Phật ngồi xem thế trơ trơ một mình
Cháo chè nhơn bất hữu tình
Khéo vô duyên bấy phận mình làm tôi
 
HỰU  VIẾT: (như tôi nay)
Tần hửu Phật Bướm Vôi
Hớn đa ngôi Tiên Thánh
Trời lập lại hội đồng lưởng tánh
Va nhơn tri đạo Thánh Hiền
Bất mục thị phản tiền
Vô tâm hiền vong hậu
Bất lễ nghĩa dám xưng rằng Cậu
Vô tri thiên tiền hậu cơ hà
Xuất lý độ thị tà
Bất tri hà lý chánh
Hồ dị tai bá tánh
Khó lấp cánh lên mây
Khó giấu thây dưới đất
Hậu nhựt nhơn nhơn phế thất
Tiền tài dạ bất tùng thiên
Ỷ lực thế bất kiêng
Nhựt nhựt nhiên hung bạo
 
XƯỚNG  VIẾT:
Lọng lạc Càn khôn môn đại đạo
Ô hô hung bạo đạo tà tinh
Quỉ cụ thần kinh linh giáo thế
Nhơn nhơn vong phế tuế viển thiên
Thánh đạo tà tiên khuyên nhứt lệ
Tiền sư tam đệ đệ giáo truyền
 
HỰU  VIẾT:
Xưa nhiều kẻ làm hiền
Nay dám phiền đa bạo
Thậm thậm khổ sư tiền giáo đạo
Nạn ngôn hậu bạo bất văn
Bất ưu kỳ nhựt nguyệt hiệp căn
Hằng bất kiếm song đăng Thìn-Tỵ
          (Thời)
Điểm ứng hửu lưỡng hình loạn trị
Quả điềm nầy Thìn-Tỵ loạn thâm
Diêm chúa khởi binh âm
Hoàng thiên dâm Thìn Tỵ xong !
 
VẢN  VIẾT: Thìn Tỵ
Thế xây vần loạn trị một ngôi
Than đời chắc lưởi thương ôi !
Việc lành người nở phụ sao tôi đành
Tỵ Thìn, Thìn Tỵ tranh hành
Hai ngôi như một người lành tốt tươi
Bạo tàn hổ thẹn cho ngươi
Tu hành thêm phước tốt tươi mới mầu
Loạn ly dư chín mười sầu
Trước người chẳng dạ vọng cầu quốc vương
Xét đời thương cũng lỡ thương
Ghét thôi lở ghét oan ương tấm lòng
Chừng nào trở lại đất đồng
Trồng khoai tỉa bắp đở lòng nhân dân
Bao giờ về chốn cựu lân
Ngỏ cho thấy mặt từ thân tỏ tường
Trung thu mua đậu bán đường
E người vào quán bất tường sử kinh
 
HỰU  VIẾT:
Xưa quán thị bất linh
Tâm sử kinh trì thế
Kim diệc hửu nhơn mưu kế
Minh tường Thánh Đế thừa ân
Chúc chúc thọ nhơn dân
Nhơn dân giai bất thọ
     (Thương hại ấy)
Thương hại thay trăm họ
Đường thượng thọ đều chê
Xóm xào nấu rất quê
Đều bê bê theo đó
Chẳng xét trong việc khó
Thêm mắt ngó tâm lầu
Sung sướng ấy bất sầu
Lạc tâm lầu xem đủ
Đền rũ nhau cả lũ
Dùng nha phiến tửu tình
Bằng hửu thuận chí bình
Ở khác tình bất cố
     (Thầy ôi ! như tôi nay đây)
Thấy trái đạo lòng phiền ái ố
Hỉ nộ tình nan tố hiền lương
     (Thầy ôi ! như tôi là)
Ai lạc tâm giả dại nhà Thương
      (Thầy ôi !tôi e là)
Cang cường chí vương mang lưới thỏ
 
VẢN  VIẾT: Lưới thỏ
(Thầy ôi ! như tớ nguyện phen này là)
Bước khỏi vòng ngọn cỏ mới ngoan
Cuốn ải quan giàu sang trối kẻ
Người trung thần không lẽ trời chôn
Dại cả môn thua khôn một gả
Kẻ suy thời nhồi nhả tả tơi
Ở đời như chỉ se lơi
Mới săn sớm sợi củ rơi tơi mành
Chớ chê lũng liễu tầm lành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Gậy Kim Cang sư trưởng cầm tay
Bao giờ trở lại nơi đây trao lời
Nạn dân ách nước tận đời
Rồng bay đám lá tối trời buông câu
 
HỰU  VIẾT: (Như tôi nay)
Tâm phiền nảo bấy lâu
Lầu son đâu chưa thấy
Hồ việt trước phân nhau chầy bấy
Tam thu dư chẳng thấy tin hồi
Thân tôi làm sao sóng dập gió dồi
Thất hạ đọa chưa rồi quả báo
       (Như đời nay)
Người chê Phật rằng lời nói láo
E nỗi nay quần áo không lành
      (Chứng mà người tưởng lại)
Nhắc nhở việc tu hành
Thân đã đành chí tử, ma !
     (Như tôi nay)
Nhớ tưỡng cựu tình ơn trí ngữ
Ai hoài thiên sử vỉ tử-quy, hà!
 
THÁN  VIẾT:
Ta hồ  nhựt nguyệt vỉ biệt ly
Hạn bán tam niên bi lụy ngọc
Trình tường lưỡng tộc ngọc tinh tri
Tỷ ngọ bất di điềm qui hiện
               Phương viên ngũ diện ứng hiện tiền
Đáo tuế tân thiên huyền cơ hậu
Hà sầu chưởng đậu đắc hậu ân
Vảng cựu lai tân thiên phân đoạn
Ta hồ sử loạn đoạn phân ly
 
HỰU  VIẾT:
Thấy sự thế ai bi
Nhơn bất tri quá thảm
     (Chư nhơn ôi !)
Khổ thêm tới xem không chốn giảm
Bịnh mười phần thương thảm bảy phần
Chẵng ai lo thân nải lập thân
Chẵng ai tưởng nghĩa nhân rẳng trượng
Thấy chẳng kẻ thương ôi cung thượng
Thiệt ít người độ lượng nghĩa nhơn
     (Ý làm sao mà người)
Chẳng lo bề phụng hiến kỳ thân
Ngỏ lập hậu vi ân trở lại
 
VẢN VIẾT: (Thầy ôi ! như tôi là)
Nhớ bắc nam dưỡng ơn tứ đại
Việc tu hành nào nại thũy chung
Thương thầy dạ nhớ lời trung
      (Thầy  ôi !)
Tôi nào biết mặt tiên cung về rồi
No nao đức Phật phản hồi
      (Phụ-hoàng  ôi !)
Bưng khuâng nhớ chúa dạng ngồi thuở xưa
Nổi gió mưa nhớ xưa thắt thẽo
Vái Phật Trời độ nẽo đường truông
Lụy sầu nước mắt nhỏ tuôn
Biết là có đặng tròn vuông như lời
      (Chư nhơn ôi !)
Cách nhau có một chử thời
Sang giàu trân trọng nghèo lời gay go
      (Huynh đệ ôi !)
Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Chí tâm niệm Phật Trời cho duyên lành
Chí dốc tu thời phải học hành
Cớ sao người bỏ việc lành chẳng lo
       (Huynh đệ ôi !)
Nổi đói no khó lo rách rưới
Nắng lâu ngày mưa tưới mấy chung
Thương vì tuổi hạc huyên thung
Làm trai thủ hiếu thất trung lổi nghì
Chử hiếu trung chẳng phải vị vì
Thiệt tình, tình thiệt bái quỳ cúc cung
 
HỰU  VIẾT: (Như việc làm người ỡ đời nay)
Phải xét đến việc nịnh trung!
Giặc tứ tung mặc giặc, ma
      (Như tôi mà ở đời nay)
Gió phưỡng phất non nam ủ mặt
Còn mưa lâm râm thắt ngặt nắng nồng
      (Ai  đi)
Đạo vợ chồng lòng chẳng thuận lòng
      (Ai  đi)
 Niềm phụ tử đèo bồng nghịch nhỉ
 
VẢN  VIẾT: Nghịch nhỉ
     (Như tôi nay là)
Cám thương đời ma quỷ đa đoan
Gió dào kẻ khóc người than
Tiểu khê kỷ dậu đại giang tới rồi
Vỉ xà thủ mả Tây hồi
Dê đi dưới đất khỉ ngồi trên non
Thứ nầy giấy mực chờ son
Còn hai thứ nửa trên non dưới đồng
     (Huynh đệ ôi !)
Khá rèn đinh sắt tấm lòng
Chờ cơn có chúa lên vồng ấm no
 
HỰU  VIẾT: (Huynh đệ ôi!)
Sung sướng chi quốc loạn chẳng lo ?
       (Huynh đệ ôi !)
Mà hằng gọi ấm no lành quần áo
      (Trong sách có chử rằng)
Thiện ác đáo đầu chung hửu báo
     (Ý làm sao mà người chẳng xem trong
kinh sử, Thánh nhơn xưa ngài có để chử)
Chỉ tranh lai tảo dử lai trì
Họa phước nhơn do cánh vấn thùy
     (Mà người)
Hằng dụng bạc chì tì đúc Phật
Trời Phật trước sở sanh nhơn vật
     (Ý làm sao)
Hà nhơn sanh Phật di kỳ !
Cám thương kẻ biên thùy
Bất tri kỳ sự chánh, ma
     (Như tôi mà lòng sầu nay là)
Từ lịnh phụ xe loan trở bánh
Khiến loạn ly bá tánh đảo quyền
Trâu thả lan nhiều kẻ trách Phiền
Ngưu phùng hổ đáo miền lao lý, xong
 
VẢN  VIẾT: Lao lý
Chí mẹo dần phật ký Hiền ra
Thân nầy người thị quỉ ma
Ví như bèo tấp mé nga bập bều
Thân nầy người thị rác rều
Chẳng ai cám tưởng cái lều tranh hư
Dạ sầu phiền nảo ưu tư
Khi nầy bất túc hửu dư nhờ trời
Nói ra người chẳng nghe lời
Người thêm khiến lại chịu đời cắn răng
Nỗi khó khăn cắn răng mà chịu
Dạ lo đời toan liệu thiên cơ
Gẩm mình tấc bấc tơ bơ
      (Trời Phật ôi ! có hay đến nỗi nầy chăng ?)
Đạo lành nằm giữ ngẫn ngơ lòng người
Khéo líu lo vượn hú thú cười
Thon don đạo Phật nhiều người không tu
Thân nầy người thị rằng ngu
Lòng ai nấy biết khó tu đở chàng
Mây giăng khói tỏa mịt đàng
Thương người tôi nói tỏ ràng chẳng nghe
Lưởi câu liêm ruồng váng nhện tre
Thương người chỉ ngỏ chẳng nghe tự tình
 
HỰU  VIẾT: (Tôi nói thiệt mà)
Ai ai khá giử mình
Việc thình lình sấm dậy
      (Huynh đệ ôi !)
Việc tội nghiệp khó toan che đậy
      (Còn như)
Việc phước tài ai nấy giành đâu ?
Họa phước nầy trời khiến cạn sâu
      (Huynh đệ ôi !)
Nam mô Phật tới đâu hay đó
 
VẢN  VIẾT: Hay đó
Nước Ó-Rằn người có qua đây
Thương người nhiều thịt bỏ thây
Lòng không niệm Phật hỏi đây mấy lời
Ở đâu chẳng vái Phật Trời
Bây giờ nói thiệt việc đời khổ đa
Trách mẹ cha ai la hồi đó ?
Đến bây giờ thấy khó kêu cha
Bậu đừng nhí nhảnh lảnh la
E sau để lổ đôi ba năm trường
 
HỰU VIẾT: (Cơn vắng vẽ nay)
Mà người chẳng hỏi thăm đường
E hậu nhựt khó tường nẻo bước
        (Cơn bịt bòng này)
Thấy hiền ngỏ a dua lấn lướt
Chẳng lo sau xét trước mà nhờ
        (Người thấy tôi)
Hình dạng dại khờ
       (Người e)
Hậu nhựt khó nhờ
Cho nên người chẳng tưởng (đó ma !)
Cao vọi vọi kìa ơn sư trưởng
       (Còn)
Rộng thinh thinh cám tưởng càn khôn
Hội tề tiên đồng đẳng nhứt môn
       (Thầy ôi !)
Đạo vi tữ vi tôn tận ý
 
VẢN  VIẾT: Tận ý
Cám thương trường khảo trí thức tâm
Học hành tính đã bảy năm
Trường an vô tự giáo tâm thi tài
Đố ai lập đặng sách ngoài ?
Văn thơ trí tuệ phép tài đậu câu
Xem rồi mắt thấy đâu đâu
Thiên cơ liểu đắc cạn sâu mới rằng
Cuộc nào mặt đất trải bằng
Nước còn xao xiếng người rằng tôi ngây
         (Huynh đệ ôi ! như tôi)
Hình dạng đây mắt ngó bên Tây
Liếc xem Tào Tháo bị vây lâu ngày
        (Huynh đệ ôi !)
Rồi đây ngó thấy Ông Thầy
Ra nơi chiến địa xữ rày muôn binh
 
HỰU  VIẾT: (Như tôi nay)
Chơn bước ván hầm hinh
Miệng niệm kinh trừ quỉ
Nam mô Phật thường hành tịnh thủy
Úm ma hà khử quỉ tiêu tà
Cầu sanh lai phước thọ nhà nhà
Đồng minh tánh thượng hòa hạ lục
Chớ mê muội noi theo ngu ngục
Nương tràng phang tị tục bớ người
Bửu Cái đây hớn hở vui cười
Qui cỏi thọ số mười đề hiệu
Tội chư quốc dấy loàn vạn triệu
Thị sát nhơn nan liệu tội thâm
Phạm luật hình nhơn bất tu tâm
        (Tôi nói thiệt)
Sát nhơn thị ngàn năm tu không hết tội
Đường oan trái trả ba bảy bội)
        (Người)
Mê tục trần bất thức tội nan
       (Cho nên)
Chẳng thấy người lòng thở dạ than
       (Há rằng dể a !)
Nói ngang lòng toan nói dọc
Chớ chớ âm thầm tra mưu độc
Đừng đừng toan ngang dọc học rằng ngoan
       (Như tôi nay là)
Tâm tích hiền tầm chốn hiển vang
Đường danh lợi dọc ngang trối kẻ
      (Cha chả !)
Sức bấy giỏi cho bằng Tào phạt Hớn
      (Còn như người chưng mặt lớn nay)
Lớn cho bằng nhà Ngô cầu hôn sát Hớn
        (Á, lớn làm chi kìa)
Huynh đệ đoạn phân lìa
Chỉ thị ngu si chưởng khoái
Thũ túc đoạn tình bất ái
       (Mã người)
Người chẳng e sự quấy chê rằng
Dạ quyết đoạn xích thằng giấu mối, xong
 
VẢN  VIẾT: Giấu mối
Tấm lòng người bối rối như tơ
Của tiền bất phải vất vơ
Chẵng dùng nhơn nghĩa như tơ lộn cuồn
Lao xao dưới biển trên nguồn
Cù lao sụp hết ghe xuồng vắng sông
Saigon trở lại lập công
Đất đồng còn đặc hóa sông bây giờ
       (Huynh đệ ôi !)
Mản tứ nên Trời Phật thượng cờ
Thanh Long Mỷ diệu tới bờ bước lên
 
HỰU  VIẾT
Chẳng xét việc hư nên
Khó ngồi trên thiên hạ
Từ thuở Láng Linh khởi họa
      (Mới)
Khiến nên tấc dạ hao mòn
 
VÃN  VIẾT
Dân xưa như thể gỗ tròn
Dân nay bát giác dạ còn lục lăng
Khó xít-xăng trông ăn phần thịt
Nhãy tưng bừng đấm đít xây lưng
Sự đời thấy dửng dừng dưng
Chẳng thương trước mặt sau lưng kể gì !
Hổ long quì bất tùy bay bổng
Cửa Thiên đường trống lỏng khó vô
Tử từ lổ miệng nam mô
Phật Trời ngồi đó phơi khô mấy ngày
Khổ hội nầy vái Thầy cứu độ
Trái cái lòng trước ngộ sau ly
 
HỰU  VIẾT: (Như tôi nay)
Mới biết rằng tiền vị hậu khi
Thời vận khiến bất tôn ti thương hạ
Bải oải ngậm ngùi trong dạ
Ngả vu nga mục đọa Hạ Bì
Nhơn lưởng tâm nay nghịch mai tùy
Người lưởng cốt nay bì mai nhục
Chớ bán lụa đầu hồi bất phục
Chế đồng vàng tứ lục còn cao
Nhận thũy xoàng hai mắt như sao
Ngồi hai nạng thấp cao xem thấy hà
 
OÁN  VIẾT:
Dạ sầu vì giấy bán mấy đồng
Thắt thẻo năm canh lạnh tấm lòng
        (Thầy  ôi !)
Thọ nạn non đống lòng thọ nạn
Trong đồng khởi loạn nhạn kêu sương
        (Thầy  ôi !)
Thảm thảm thương thương đương dương đạo
       (Vậy  chớ)
Hàm oan oán bạo cạo đầu sài
Tôi tớ ăn mày đều cạo trọc
Nhị triêu ngang dọc độc tâm nan
 
HỰU  VIẾT:
Bất dụ tất tà gian
Lòng thở than đời cạn
Đoái nhìn thấy nhơn dân đại nạn
Phong trần đà khởi loạn tứ phương
      (Nhơn dân ôi !)
Dân lở bề thọ hại tử ương
Đường oan trái mạt Thương mới biết
     (Chư nhơn ôi !)
Nước bối rối giả câm làm điếc
Dầu tài năng chẳng biết dể hơn
     (Huynh đệ ôi !)
Chưa phải thời ra mặt cao sơn
     (Mà)
Người làm cúng tiếu vô ơn thọ tử
Trên Trời Phật chưa tờ chỉ sử
Dưới chúng dân tích cử xuất binh
Mặc thế tình vinh nhục loạn ninh
Nào nào biết Trần binh hà đạo ?
Tôi tưởng chúa lo đền cơm gạo
      (Chư huynh ôi !)
Tớ tưởng Thầy giử đạo trọn ân
       (Chư nhơn ôi !)
Chư nhơn đừng ngổ nghịch vu thân
        (Chư nhơn ôi !)
Vậy mới gọi lập thân hành đạo
 
VÃN  VIẾT: hành đạo
Cám thương người nghịch bạo mạng vong
Tới đời vở ổ chòm ong
Khi không mình lại mang rong lao tù
Kẻ hiển vinh lên vỏng xuống dù
Nhện giăng trước mặt mịt mù thấy đâu
Phước bao sâu họa cũng bao sâu
Làm người sao chẳng lo âu nước nghèo
Chúa lở cơ lên đèo quá hải
Nước nghiêng nghèo người phải lo âu
Thương thầm cá ẩn bực sâu
Chim bay ngàn dậm thấy đâu chùa chiền
Chốn vỏ môn tam cấp chiêu hiền
Long Cu cởi đặng gởi phiền non sông
Lẻ nào biệt tích biệt tông
Mà người chẳng vái bà ông cứu đời
Dạ thở thân vái Phật cầu Trời
Dân như cá cạn khó đời dân ôi !
Nực cười ai chẵng thương tôi
Thân nầy khác thể bí bôi xấu màu
 
HỰU  VIẾT:
Cách địa tịch ưu sầu
Xem bất cầu hiền sỉ
Thấy ít kẻ bồi thiềng đắp lũy
Nhìn không ai lập kỷ Trần Cang
Cám thương đời nay hiệp mai tan
Đò tạo hóa thở than đà chích bánh
 
VẢN  VIẾT: Chích bánh
Xem ít người vi cánh Đường bang
        (Thầy ôi)
Kẻ giàu sang khó than đạo lý
Xem ít người hiệp ý đồng tâm
Bảy ngày sau hiệp mười lăm
Đạo làm tôi tớ siển thâm nhờ Thầy
Nổi tớ nay như kẻ ăn mày
Nay tan mai hiệp nhờ Thầy khiến xui
      (Thầy  ôi !)
Dạ Thầy vui đệ tử cũng vui
Thầy buồn tệ tử cũng xuôi lòng buồn
Nổi xuân ai nam bắc thơ tuồng
Thầy vui dầu tớ lòng buồn cũng vui
       (Thầy  ôi !)
Kẻ săn chồn dặm tới bước lui
       (Huynh đệ ôi !)
Chó vầy sủa bóng nai xuôi vào rừng
       (Chư huynh ôi !)
Chắt lưỡi ôi ! đôi mắt ngó chừng
Kìa kìa mé biển chưn rừng lao xao
 
HỰU  VIẾT:
Kiển buồn vui bích lịch nghêu ngao
Nay thoại chí thấp cao vui vẽ
Lần lần kể từ năm chẳng lẽ
Ai ngay gian có Thẻ ngăn đường
     (Như tôi nay)
Vái Nam bang vỉnh viển miên trường
Cầu Hớn thất Minh đường kiến thọ
Trai thơ thớ ứng tường Tý Ngọ
Gái đường đường hai họ hòa duyên
      (ấy làm vậy)
Mặc tình ta hòa ý Tây phiên
     (còn như bỗn phận người)
Khá giử chí căn duyên phiền túc
    (Huynh đệ ôi !)
Máy tan hiệp hư nên có lúc
Đến ngày nay Trời Phật khiến
Lòng ta hạ bút đề thơ
    (Chị em ôi !)
Khá rèn lòng đừng dạ lẵng lơ
Nhỉ văn đọc tri cơ trào chánh
     (Chị em ôi ! như tôi)
Từ ngó chiếu kiến tường Phật Thánh
Phật hiện tâm minh tánh nan cầu
     (Chị em ôi !)
Vui nổi chi mà trong dạ không sầu?
    (Huynh đệ ôi !)
Trời Phật nở cầu người chẳng tưởng
 
LOẠN  VIẾT:
Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn
     (Chị em ôi !)
Thân khá thủ thân ân oán ác
     (Tôi dám khuyên cùng anh em, chị em khá niệm Phật)
Nam mô Bồ Tát ác chi tiêu
Khổ khổ tiêu tiêu phiêu phiêu tận
Bất lưu oán hận tận tình hung
      (Huynh đệ ôi !)
Thủ hiếu thủ trung hung bất nhập
Côn đồ cổn chiến bất cập vong
 
VẢN  VIẾT:
Dạ nguyền khẩn bái thầy Ông
Bao giờ cá đặng hóa long an hòa
Rán lòng tin tưỡng Ông Bà
Lều tranh có đạo hơn tòa ngói tô
Miệng niệm nam mô nuốt vô có Phật
Nhổ ra rồi chư tật còn y
Muốn quy y nài chi gai gốc
Muốn học hành dục tốc bất thông
Kẻ có công gai chông lần bước
Mai sau dầu gặp phước làm nên
Của tiền chất để đôi bên
Một lòng thờ Chúa dưới trên có phần
Trách ai dạ chẳng ân cần
Vùa hương bát nước ân cần báu châu
 
HỰU  VIẾT: (Như tôi nay)
Cá mắc cạn ẩn hang sâu
Người ở đâu mà ngó thấy
Từ thuở phụ tồn thiểu giấy
Trời khiến nên ngó thấy đường dài
Thậm trách bấy hớn hài
Sau ở ngoài gay gắt
 
VẢN  VIẾT:
Nẻo sanh tử mau dường nháy mắt
Câu bại thành gẩm ắt nào xa
Phật bước ra tà ma áp bắt
      (Huynh đệ ôi)
Gẫm sự đời gay gắt nhiều phen
Kẻ ghét ghen đua chen khôn dại
Việc tu hành nói lại đôi co
Dạ sầu lụng đói phát no
Thương trần dạ chẳng âu lo thân hình
Vui chi ca miểu hát đình ?
Trời ra tiếng sấm giựt mình quên tên
Phật Trời phưởng phất một bên
       (Chị em ôi !)
Vái van khẫn nguyện gặp nên mà nhờ
 
HỰU  VIẾT: (Như tôi nay)
Tai hằng nghe chư quốc sanh cờ
Tài phép lạ một giờ thâu hết
Tử vô số hồn oan theo kết
Nay anh hùng sau hết tài năng
       (Huynh đệ ôi !)
Hai đoạn nầy day trở khó khăn
      (Thầy  ôi)
Biết bao thuở tài năng trợ thế
 
VẢN  VIẾT: Trợ thế, (Thầy ôi !)
Cám thương vì phế đế cùng tu
       (Trung tình ôi)
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Nguyện cầu biển Thánh rừng nhu đỏ đèn
       (Thầy  ôi !)
Nổi gian nan tớ chịu khó hèn
Phật trời chứng chiếu ngọn đèn tinh minh
       (Trung tinh ôi !)
Việc sử kinh tâm linh ký tự
Hạ bút thấn ghi sự cổ kim
Dậm hòe dầu thỏ đường chim
Ai tường sự cổ sự kim đổi dời
Ngặt tình kêu Phật kêu Trời
Thương thương xót xót nạn đời mới kêu
Ở đời nhiều kẻ trớ trêu
Phật Trời chẳng dễ người kêu liền hoài
Biết sao có phép có tài ?
Ra nơi quan ải hỏi vài tội tham
 
HỰU  VIẾT: (Ý làm sao)
Kẻ không tội bắt giam ?
Còn người gian tham khỏi hại ?
Người khiến nhiều lẻ Nam kỳ tồn bại
       (Ý người muốn)
Tuyệt kỳ hang sát hại quân thần
       (Tôi nói thiệt)
Đường tử sanh tôi nguyện có Thánh Thần
Nẻo vinh nhục cơ bần tại lịnh
Kế Gia-cát để dành Gia định
Mưu Tử Trình hiệp lịnh tân quân
        (Như tôi nay là)
Đải hậu nhựt huờn xuân
Nhơn bất tuân bất dục
 
LOẠN  VIẾT:
Yếu lộ mưu thâm ân binh phục
Cổ thiền sỉ nhục phục trào tân
Kim cổ xử phân bân mản đọa
Hai ngôi thọ họa hạ Tây trào
 
VẢN  VIẾT:
Lều tranh chẳng kẻ ra vào
Tai nghe phường phố ào ào như giông
Thứ nầy hành đắc hóa long
Ngộ kỳ ngư thũy vi phong hội nầy
Gió day bát hướng lâu ngày
Bưng khuân tưởng Phật nhớ Thầy đòi cơn
Vận nghèo ai chẳng phi ơn
Của Trời Phật để Thất sơn thiếu gì
Gian nan ít kẻ bù chì
Mu ni áo bả nương tùy nhà Thương
Rày mừng quốc thới dân khương
Trên quan sửa trị dưới lương dân tùng
Trải gan vàng ngọc anh hùng
Trên Vua nhơn đức dưới dùng lâm tôi
Ngai vang vửng đạt báu ngôi
Trên Vua khai rạng dưới tôi trung thần
 
CHUNG
Nam  mô  A  Di  Đà  Phật
Chép  rồi  ngày : 19 - 3 – Đinh Hội

-*-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn