Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 17

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 41187)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 17

KHÔNG BUỒN NGỦ

Đêm nay lại sao ta không buồn ngủ?
Đi, đứng, nằm, ủ-rũ nỗi niềm xa.
Hình như say chén rượu quá khề-khà,
Nhớ những kẻ bê tha trong ảo mộng.
Đường danh-lợi đua chen mùi ong-ỏng,
Đâu có màng tiếng vọng của người tu.
Cảnh thế-gian dường thể chốn ao tù,
Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng.
Nơi cửa Thánh, ôi! người càng quạnh vắng,
Chốn nhà ma chen-chúc quá thêm đông.
Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng,
Đưa nhơn-loại đi vào vòng hạnh-phúc.
Thương trăm họ ruột tơ thêm vò khúc.
Để trí suy giục-thúc cả muôn dân.
Bỗng hay đâu nghi-ngút khói vui Tần,
Tăng-sĩ phải gắng vùi mơi hắc ám.
Nào ai biết tâm ta đời bác lãm,
Kiếp người dường chùm gởi bám vào cây.
Ở thế-gian ai rõ kẻ chơn Thầy,
Dắt sanh-chúng lìa nơi sông mê khổ.
Cõi trần-thế biết bao điều ái ố,
Hơn cùng thua nhắm mắt cũng ra ma.
Chi cho bằng:
Lúc sống sanh tìm lấy cuộc nhơn hòa,
Chữ thuận thảo hay hơn là tranh-đấu.
Thuở ít tuổi ấy là thời thơ ấu,
Ơn mẹ cha dạy-dỗ lúc nâng-niu.
Lớn lên rồi cần giữ lấy qui điều,
Của Phật-Thánh dạy người trung lẫn hiếu.
Con nghịch phản đều mang câu đàm tiếu,
Giữ sao tròn đạo nghĩa mới khôn ngoan.
Lòng sắt son dám sánh nỗi ngàn vàng,
Khó mua chuộc những người đầy liêm-sĩ.
Đường xa mới rõ biết tài ngựa ký,
Lúc nguy nàn tường tận kẻ vô lương.
Phụ ông cha làm lắm thói bạo cường,
Giành ăn uống ganh em cùng ghét cháu.
Trời sanh muỗi là loài thường hút máu,
Cũng lắm người mượn kế ấy dung thân.
Nên thuở xưa Trời sắp cuộc Phong Thần,
Diệt kẻ quấy lọc-lừa dân lương-thiện.
Mong Tạo-hóa sắp xong tuồng cổ-điển,
Đặng nhơn-sanh kiến cảnh thái bình hòa.
Ngỏ lời khuyên nhơn-loại khắp gần xa,
Rán tu tỉnh hưởng đời chung cực-lạc.
Trên cửa Phật mùi hương thơm bát ngắt,
Dưới quân thần phụ tử khải hoàn ca.
Ấy là xong bốn biển hiệp một nhà,
Không ganh-ghét dứt câu thù hận oán.
Trên kẻ trí lấy công-bình phân-đoán,
Dưới vạn dân trăm họ được im-lìm.
Trẻ với già gìn hai chữ từ-khiêm,
Không còn thấy loạn-luân nền cang-kỷ.
Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ,
Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương.
Đạo cha con chặt-chẽ chữ miên trường.
Đao chồng vợ thuận-hòa cho đến thác.
Biết lẽ nghĩa kính yêu cùng cô bác,
Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì.
Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri,
Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá.
Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã,
Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan.
Trên non tiên văng-vẳng tiếng phụng-hoàng,
Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc.
Đời xuất Thánh tỏ bày câu tiêm-tất,
Rán giữ-gìn kẻo mất giống hiền xưa.
Những thói hư tật xấu phải răn chừa,
Sau sẽ thấy người xưa tường tận mặt.
Ta kể sơ ít điều cho vắn tắt,
Ước mong đời xét kỹ đặng tu hành.
Phật từ-bi đặng chữ cao thanh,
Người lương-thiện hưỡng muôn điều hạnh-phúc.
Đến dây ngao-ngán việc trần,
Thội dừng bút lại định thần xét suy.
Giàu-sang lắm kẻ vô nghì,
Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa-nhân.
Chẳng kiêng chẳng nễ Phật Thần,
Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang.
Vì chưng ta mắc tai nàn,
Lòng thương trăm họ lỡ-làng từ nay.
Cầu Trời, Phật độ tiêu tai,
Cứu trong thiên-hạ Đạo khai khắp trời.

Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn

THU ĐÃ CUỐI (Bài nầy không có tựa. Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)

Thu đã cuối bấc lai-rai thổi,
Xét cõi lòng chạnh nỗi thương tâm.
Canh tràng thổn-thức đứng nằm,
Phiền-ba xe ngựa ù-ầm bên tai.
Nguồn mây bạc cuốn quay mũi viết,
Chấm vào nghiên chi xiết ngại-ngùng.
Cũng bung sao lại khuấy bung,
Một bầy ngơ-ngác cội tùng còn xa.
Thấy Tăng-Sĩ thiệt-thà hữu chí,
Vội đem lòng ích-kỷ hại nhân.
Ôi, đời yếm cựu nghinh tâu,
Rùng-rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên.
Làm cho Lão nửa phiền nửa tủi,
Ước sao mình như cuội trên trăng.
Đặng soi khắp cả dương-trần,
Cho người trong tối đặng lằng điển quang.
Kể đến lúc băng ngàn đất khách,
Đem thân nầy cắt mạch sầu đông.
Dầu ai trao đổi lạt nồng,
Trao chua chế ngọt tấm lòng chẳng nao.
Nhưng nghĩ lại héo xào tim phổi,
Biết gốc lành sao cội không gìn.
Ngạt-ngào tiếng kệ lời kinh,
Ơn nhờ chư Phật oai thinh giáo-truyền.
Thân làm Đạo ba giềng năm mối,
Dù gặp cơn gió thổi mưa tuôn.
Bại rồi thành lại nên tuồng.
Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma-ha.
Trải một lúc cuồng ba sóng dậy,
Chắc nhơn-sanh sẽ thấy việc chi?
Trời đà sắp-đặt ly-kỳ,
Tới ngày trả quả ầm ỳ biết bao.
Thỏa cho kẻ khát-khao đạo-đức,
Danh Thánh tài thơm rực non sông.
Theo đòi học cổ của ông,
Nguồn văn gọi người đồng tâm tu.
Lòng đừng chất mối thù chi cả,
Lũ bạo tàn tất tả nay mai.
Bấy lâu khoe giỏi khoe tài,
Trời xanh rọi thấu diệt loài kiêu căng.
Lời ta nói có ngằn lắm nhỉ,
Đễ đây rồi chúng quỉ hiểu lầm.
Điệu đờn trổi khúc huyền thâm,
Nhà nghề chọn bản tri âm đâu nào.
Giọng Tăng-Sĩ thanh thao như kiểng,
Hạn đã lâu sông giếng cạn mòn.
Cỏ cây khô héo thon-von,
Nay nhờ mưa đượm mà còn khát khao.
Nghĩ đến đây gió ào-ào thổi,
Ngẩng mình ra nhìn ngọn đông-phong.
Khổng-Minh nhờ gió dụng công,
Còn ta nhờ được muỗi-mòng bay tan.
Khuyên chớ chấp kẻ lòng lang sói,
Để đức lành ta rọi khắp nơi.
Non sông rực-rỡ chói ngời,
Mảnh gương Phật-đạo soi đời cổ kim.
Nhơn loại sẽ khỏi chìm bể khổ,
Khắp muôn loài nguyện độ siêu-thăng.
Kể chi miệng mối lưỡi lằn.
Mặc tình thế-sự kêu thằng hay ông.
Chớ chia rẽ phải đồng tâm lực,
Khua giọng vàng đánh thức bốn phuong.
Chấn-hưng Phật-Giáo học-đường,
Dưới trên hòa-thuận chọn đường qui nguyên.
Tay Tăng-Sĩ gậy thiền quyết nằm,
Lần buội bờ xuống thẳm lên đèo.
Dầu cho gặp lắm hùm beo,
Từ-bi vẫn niệm quyết leo khỏi rừng.
Đâu nản chí mà ngừng việc phải,
Cuộc tang thương biến cải cảnh trần.
Bực tang đeo đắm pháp-thân,
Chờ cơn gió tạnh sẽ lần bước ra.
Thấy thiện-tín chan hòa giọt lụy,
Tâm não nùng chạnh nghĩ xa vời.
Chim trời dựng ổ chiều mơi,
Bầy con chiu-chít cả đời nhàn thân.
Còn một đoạn mưa Tần nắng Sở,
Trải qua rồi việc dở hóa hay.
Thế-gian sẽ biết Thánh-tài,
Bế-bồng con dại hát bài khải-ca.
Ai mà được trông qua cảnh ấy,
Cội phúc nhà tạo lấy mà nhờ.
Thương đời tả ít lời thơ,
Nẻo tu dân-sự còn chờ dịp nao?
Phận Tăng-Sĩ nài hao gió bụi,
Miễn xổ lồng tháo củi ta-bà.
Theo đòi gương-phẩm Thích-Ca,
Dốc đem tâm chí tầm ra Đạo mầu.
Cả vạn vật chung bầu thế-giái,
Vì oán thù dựng bãi chiến-trường.
Cũng đồng xưng bá xưng vương,
Tranh quyền đoạt lợi đởm đương xé giành.
Ta nguyện một lời hành chánh đạo,
Chẳng phải người thông thạo hoàn toàn.
Nhưng mà gắng chí kêu vang,
Người ôi! thức tỉnh lánh nàn tu thân.
Nguồn bạch thủy trong ngần mát-mẻ,
Múc rưới vào độ kẻ chúng-sinh.
Thần-thông phép Phật muôn nghìn,
Cội lành nắm chặt ắt mình thảnh-thơ.
Nay Tăng-Sĩ có lời kêu gọi,
Dụng tinh-thần chống-chỏi quỉ tà.
Đừng cho chúng đến gần ta,
Nhơn-sanh còn hỡi ngà-ngà giấc say.
Phật, Tiên, Thánh muôn loài vạn-vật,
Cũng ở trong quả đất dựng gầy.
Siêu-thăng nhẹ tách đường mây.
Trầm-luân oan-nghiệt càng gây thêm hoài.
Ta chí dốc tầm đài-nguyệt-kiến,
Cho dương-trầng rọi chuyện sai lầm.
Định thần dẹp hết tà tâm,
Huờn lai bổn-tánh Thần khâm quỉ nhường.
Bỏ cái tánh tự cường tự trọng,
Gẫm cuộc đời cái bóng theo hình.
Tu hành đâu kể nhục vinh,
Ta làm bổn-phận ngạo khinh mặc đời.
Đầu ngường-vọng đất trời minh chứng,
Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời.
Đôi đểu hòa-nhã nơi nơi,
Thân nầy mới chịu ngồi ngơi thạch-bàn.
Lòng trẻ thảo biết đoàn biết kết,
Phí xác phàm mê mệt đâu nài.
Băng rừng vẹt phá gốc gai,
Đưa người lương-thiện đến ngay Niết-Bàn.
Thấy biểu khổ đâu an lòng đặng,
Xông thuyền ra cứu vớt sanh-linh.
Miễn cho bá tánh vẹn mình,
Hết cơn bịnh tật hết tin đạo tà.
Cúi nhờ nước ma-ha mát mẻ,
Xin Phật ban cho kẻ khát lòng.
Chim khôn thì uống nước trong,
Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ.
Để ma bịnh theo hờ bén gót,
Thần chết kia ôm hoát bên mình.
Đạo lành sao lại chẳng tin,
Dầu cho thông thái cũng gìn cốt xưa.
Nở đâu lại vày bừa đồng loại,
Cũng gốc Ngài Thượng-Đế xuống trần.
Quày đầu nghe tiếng chuông ngân,
Trở về nơi cũ cho gần Phật, Tiên.
Thấy sanh-chúng quá ghiền cảnh tục,
Nên nhiều lần giục thúc muôn dân.
Bạch trinh giữ lấy nghĩa-nhân,
Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần.
Vượt cảnh khổ muôn phần u-ám,
Ganh, ghét, hờn, thì thảm muôn bề.
Khuyên trong nam nữ chợ quê,
Cúi đầu thiện-niệm trông về Tây-Phương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn