Người Việt từ xưa, qua những hồi lăn lóc trong bể lợi danh, quá mệt nhọc
trên trường khoa hoạn, thường ưa thích những phút giây thư thái tâm hồn. Những Đạo Đức Kinh của
Chen chúc lợi danh
đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt
mới vui sao
Đám phồn hoa trót
bước chân vào
Sực nghĩ lại giật mình
bao kể xiết!
(Thoát vòng danh lợi)
Một Cao Bá Quát đầy tự phụ và cao ngạo, cũng chán ngấy trần gian không
kém ông Trang, ông Lão :
Thế sự thăng trầm
quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu
ngư châu
Vắt tay nằm nghĩ
chuyện đâu đâu
Đem mộng sự đọ với
chân thân thì cũng hệt
(Ngán đời)
Rồi Nguyễn Trãi với trạng thái tiêu dao, gởi hồn vào những câu hát trên
núi Côn Sơn, Trạng Trình với “Một mai một cuốc một cần câu” bên bờ Tuyết Giang và Nguyễn Thiếp với đôi mắt mơ huyền nhìn ngàn
Thiên Nhận, núi Thiên Nhận mà lãng quên thế sự thăng trầm… đã dư đủ để nói về ảnh
hưởng của Lão Trang trong giới sĩ phu thời cổ.
Bởi vậy, để đưa người từ vẹn đạo tu Nhân, tiến sang quả vị thành Phật, Đức
Giáo Chủ đã khơi lên ý thức Thần Tiên tức là gợi ý thoát tục cho con người dần
dần tiến mãi.
Cái phong thái xuất thế cầu nhàn được mô tả như là đẹp nhất và an ổn nhất
cho tâm hồn để lần lên bờ giải thoát. Ta hãy dò theo ngòi bút của Đức Thầy.
Khi thì như chơi vơi trong cảnh mây bay gió thoảng, trời rộng non cao…
Ngồi trên đảnh núi
liên đài
Tu hành tầm đạo một
mai cứu đời
Lan thiên một cõi
xa chơi
Non cao đảnh thượng
thảnh thơi vô cùng
Hiu hiu gió thổi lạnh
lùng
Phất phơ liễu yếu lạnh
lùng tòng mai
Mùa xuân hứng cảnh
lầu đài
Lúc còn xác thịt
thì tài hùng anh
Tứ vi mây phủ nhiều
đoanh
Bồng lai một cõi hữu
danh chữ đề
Kể từ Tiên cảnh ta
về
Non Bồng ta ở dựa kề
mấy năm…
Lại có hồi như băn khoăn ray rứt, nhưng vẫn tịch mịch thoát trần…
Trí thần nhờ đến tiếng
quyên
Gọi hồn cố quốc sầu
riêng một mình
Trầm ngâm vẻ mặt
làm thinh
Tựa mình bên gối giấc
quỳnh đã say
Mơ tiên hồn muốn vụt
bay
Và cũng có lúc như nhàn nhã thong dong, say mê theo những cuộc cờ tiên,
câu thơ thần, chung rượu thánh…
Về Tiên cảnh say
mùi rượu Thánh
Chén quỳnh tương
gác điều gai ngạnh
Vui tinh thần bày
biện cuộc cờ
Khi thứa nhàn trổi
giọng ngâm thơ
Bày thi phú than
qua thời thế…
Chúng tôi đã có dịp nói rằng sự hiện diện của Khổng và Lão trong Phật
Giáo Hòa Hảo không phải là sự tổng hợp đồng đều, mà chỉ là một phương tiện.
Phương tiện đưa dần từ bước nhập môn tu Nhân, lần lên ý thức thoát tục, để rồi
tiến dần đến học Phật cho giác hạnh viên mãn. Tuy vậy, trong kinh kệ của Đức Thầy,
thỉnh thoảng Tam Giáo được nhắc đến theo trình tự kề nhau, như có ý khuyên người
lần dò theo mà đi đến đích:
Trên non Tiên văng
vẳng tiếng phụng hoàng
Phật, Tiên, Thánh
an bang cùng định quốc
(Không buồn ngủ)
Phật, Tiên, Thánh
lòng nhơn hà hải
Những ước ao thế
giái hòa bình
(Giác Mê Tâm Kệ)
Tu là tu Phật tu
Tiên
Tu cho rõ biết chữ
Hiền ra sao
(Viếng làng Mỹ Hội
Đông)
Đến đây, sau khi đã biết là Đức Thầy thường dùng các phương tiện để độ rỗi
chúng sanh, chúng ta mới không thấy làm lạ khi đọc kinh sách Phật Giáo Hòa Hảo
mà thấy có các danh xưng Vua, Chúa, Tiên, Thần, Trời, Thánh… Người ta đã mắc phải
những lầm lẫn lớn khi đọc vội vả và hiểu vội rằng Ngài có tư tưởng bảo thủ, hoặc
chấp nhận những gì trái với triết học duy lý của Đức Thích Ca.
Không. Bằng những phương pháp hoặc suy diễn hoặc quy nạp tùy lúc, Đức Thầy
đã thoát khỏi sự cậu nệ thường tình để có khi chú trọng vào tinh thần hơn là
kinh điển, có khi chỉ lưu ý đến một hình ảnh điển hình và cụ thể để dẫn giải một
sự kiện siêu hình, miễn làm sao cho dễ nghe dễ hiểu để đạt được cái lý là đủ.
Trở lại vấn đề dung nạp tinh hoa Nho giáo và tư tưởng Đạo giáo trong
Giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta có thể xác nhận rằng đó là sự “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp” để làm
cho xuôi đường thuận cảnh dẫn dắt chúng sanh và để quy căn vào bản sắc dân tộc
chớ tuyệt nhiên không phải để cải sửa lại bất cứ điểm nào trong Giáo lý chơn
truyền của Đức Thích Ca Mâu Ni (2)
(1)Xem Việt Nam Tam Giáo Sử Đại Cương của tác giả Phạm Văn Tươi xb 1937
(2)Xem thêm bài của Thành Nam: Nho Giáo trong Giáo Thuyết PGHH, Đuốc Từ
Bi số 19-20 tháng 9-10, 1966 và Tinh Thần Lão Giáo trong Giáo Lý PGHH, Đuốc Từ
Bi số 21, tháng 11, 1966