Sau gần bốn mươi năm hiện diện, bản tổng kết của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng là một danh sách thật dài của những hy sinh, gian khổ, tù đày, tàn sát.
Hai ủy viên Trung ương bị ám sát (Bác sĩ Trần Văn Tâm, ông Nguyễn Văn Sâm). Cả ba vị tổng bí thơ liên nhiệm đều bị tù đày và chết (Nguyễn Bảo Toàn, Phan Bá Cầm, Trình Quốc Khánh). Một vị Chỉ huy quân sự bị hành quyết (tướng Lê Quang Vinh). Và biết bao cán bộ, đảng viên đã bị Pháp và Cộng Sản tàn sát từ 1946, rồi lại bị tiếp tục tù đày từ 1975 về sau.
Đất ruộng miền Tây đã thấm ướt máu hy sinh của bao nhiêu chiến sĩ Dân Xã, và các nghĩa trang rải rác ở miền Tây còn bao nhiêu nấm mộ chiến sĩ Dân Xã. Đó là những chứng tích hy sinh của một đảng cách mạng đối với tiền đồ của Tổ quốc. Với những hy sinh lớn lao như thế, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng chưa hề hưởng thụ phần nào quyền lợi vật chất, bởi vì lý tưởng của đảng chưa được thực hiện: Đất nước chưa độc lập, Dân tộc chưa có tự do.
Nhìn vào bản Tổng kết này, người đảng viên Dân Xã có thể hãnh diện rằng đó là bản tổng kết của một đảng cách mạng chơn chánh. Bản chất đích thực của tổ chức cách mạng là hy sinh vì đại nghĩa dân tộc, và hy sinh bất vụ lợi. Hơn thế, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, tuy là một đảng cách mạng, nhưng lại khác biệt với các đảng cách mạng khác là thoát thai từ một tôn giáo, từ giáo lý Phật đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Do đó, người chiến sĩ Dân Xã đồng thời còn là một con người hành đạo. Nói cách khác, người chiến sĩ Dân Xã quan niệm rằng tranh đấu tức là hành đạo. Tức là không tranh đấu cho cá nhân ta, cho riêng đoàn thể ta, mà tranh đấu để cứu nước, cứu dân, để thực hiện một xã hội công bằng, nhân ái, tự do và bình đẳng, đạo đức và an lạc cho tất cả, đúng theo chủ trương cứu khổ của Đức Phật.
Con đường Dân chủ Xã hội đối với người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là con đường cách mạng đạo đức, để tiến tới một xã hội đại đồng an lạc, không phân nhơn ngã, con người bình đẳng trong thể tánh nhứt nguyên: Phật đồng thể tánh với chúng sanh, chúng sanh là Phật sẽ thành.
Đức Huỳnh Giáo Chủ đã giải thích quan điểm này như sau: “Thế nên với tâm hồn từ bi bác ái mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực đồng bào và nhơn loại, thực hiện một xã hội công bình và nhơn đạo...”
Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đi trên con đường Dân chủ Xã hội để tiến tới mục đích Hòa Hảo của Phật đạo. Sử dụng phương tiện dân chủ xã hội để đạt cứu cánh Hòa Hảo.
VÀI ĐẶC ĐIỂM VỀ VIỆT NAM DÂN CHỦ XÃ HỘI ĐẢNG
Sở dĩ Dân Xã Đảng đặt vấn đề độc lập quốc gia trước các vấn đề khác là vì:
1. Trên lập trường quốc tế, nước Việt Nam có được độc lập, dân tộc Việt Nam mới được sống bình đẳng với các dân tộc khác; dân tộc bình đẳng nhau mới chủ trương được dân tộc hiệp lực, mới kiến thiết được hòa bình xác thực cho thế giới.
2. Dân tộc Việt Nam được tự chủ và mạnh mới tránh khỏi sự chi phối của đế quốc chủ nghĩa, và thi hành một cách có hiệu quả những biện pháp chánh trị và kinh tế, đem lại hạnh phúc cho các từng lớp dân chúng.
Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng là một đảng DÂN CHủ, chủ trương thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: CHủ QUYỀN ở NƠI TOÀN THỂ NHÂN DÂN.
Đã chủ trương TOÀN DÂN CHÁNH TRỊ, thế tất đảng CHỐNG ĐỘC TÀI BẤT CỨ DƯỚI HÌNH THỨC NÀO.
VIỆT NAM DÂN CHủ XÃ HỘI ĐẢNG là một đảng CÁCH MẠNG XÃ HỘI, chủ trương tổ chức nền kinh tế theo nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội: không để giai cấp mạnh cướp công của giai cấp yếu, làm cho mọi người đều được hưởng phúc lợi cân xứng với tài năng và việc làm của mình...
(Trích bản Tuyên Ngôn ngày 21-9-1946 của VNDCXHĐ)
Sau đây là phần tường thuật của ông Trần Văn Ân (một ủy viên Trung ương Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng) về một số sự việc chung quanh sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.
THÀNH LẬP ĐẢNG VIỆT NAM DÂN CHỦ XÃ HỘI
Đức Thầy và chúng tôi đã thảo luận về nguyên tắc thành lập chánh đảng, tức chánh trị hóa quần chúng của Đức Thầy, để phần nào chuyên hành đạo thì không trực tiếp tham gia việc Đảng, và phần khác thì sanh hoạt hẳn theo công tác tranh đấu của quần chúng.
Bây giờ nhắc lại, khó được người tin về chuyện chúng tôi cùng Đức Thầy thường gặp nhau thảo luận trong những bữa cơm dùng tại các tiệm ăn Tàu ở đường Marins Chợ Lớn, như tiệm Băng Gia Tửu Lầu. Tôi có hỏi qua về chuyện ăn uống của Đức Thầy trong bưng, có khi phải ăn mặn, nhưng với chúng tôi, Đức Thầy vẫn dùng cơm chay. Tiệm Tàu nào cũng có đồ chay. Bữa đó chúng tôi năm, sáu người có hẹn nhau ở tiệm Băng Gia vào buổi trưa, không đi chung mà cùng tới một lúc. Bên chúng tôi có ba người, bên Đức Thầy cũng có ba người, nếu trí nhớ của tôi không lầm. Sở dĩ hẹn ăn trưa, vì mật thám ít đi lùng bắt. Giữa chúng tôi, có một người mặc y phục Hoa kiều như Đức Thầy...
Dùng cơm xong ở Băng Gia, chúng tôi tỏa ra mỗi người đi một hướng, để rồi hẹn tụ tập ở một địa điểm ở đường Palikao, Chợ Lớn. Phía Đông Nam, ít có nhà người Việt, và có nhiều nhà máy xay. Nhà này là của một người bà con bên vợ anh Sâm, thân với anh, và cũng là người ái quốc. Ông chủ nhà thuộc thành phần trưởng giả. Trọn ngày chúng tôi không ra khỏi cửa. Đức Thầy ở trên một cái lầu dành thờ Phật và tụng niệm của chủ nhà, cất trên hết, và vuông vức độ ba thước hoặc hơn một chút. Người trong nhà không một ai lui tới. Duy có chúng tôi, vài người đệ tử của Đức Thầy, ông chủ nhà, và Đức Thầy. Đem đồ ăn, cũng là ông chủ nhà. Tiểu tiện, đi không gặp ai cả. Xin nói ngay, ông chủ nhà, ông Hội Đồng Nhiều (Hội đồng thành phố) tức Nguyễn Văn Nhiều. Trước khi viết bài này, tôi đã có đốt nén hương khấn vái vong linh tiền bối, đồng chí ái quốc, và nguyện cầu danh hiệu Đức Thầy, tới đây tôi đốt tiếp vì lòng tôi cảm thấy bùi ngùi nao nao... Số là, ông Hội đồng Nhiều sau đó, đương đêm bị Việt Minh vào nhà bắt đi và giết chết, chặt thành nhiều khúc, xác bỏ dọc đường mương (nếu sự nghe của tôi không lầm về sự chặt thây ra nhiều khúc rất thê thảm).
Trong năm người có mặt hôm ấy, không kể đệ tử của Đức Thầy, nay đã vắng mặt bốn người. Làm sao tôi tránh được đau xót, và thảm thắc lâng lâng, khi tôi viết tới đoạn này.
Độc giả khi đọc tới đây, nên tưởng tượng một cảnh nhà khá giả nhà ngói cột giồng, với nhiều bàn thờ, ván gõ, ghế trường kyœ, mỗi thứ đều bằng gỗ lim theo kiểu cổ xưa. Chỉ có bảy người, kể cả hai đệ tử của Đức Thầy. Nói chuyện rất nhỏ tiếng, trọn hai ngày như vậy. Chiều ngày thứ ba, mới giải tán. Vì ngày thứ ba là ngày xong cả giấy tờ, sau khi đã quyết định. Cả bảy người, người nào cũng nghiêm nghị. Đức Thầy là người nghiêm chỉnh hơn cả. Hai đệ tử của Đức Thầy cũng ít nói, Nguyễn Văn Sâm vốn sẵn tính bình tĩnh, suy tư. Nguyễn Bảo Toàn là người có tánh động hơn cả. Kẻ viết bài này thì động tịnh như nhau, vì là người thuyết trình và soạn thảo tài liệu.
Người đọc cũng nên để ý về tâm trạng của bốn người chánh yếu, để nhận chơn tình trạng cuộc nói chuyện. Đức Thầy là người “không học mà biết”, người tự sáng, tức là illuminé. Sâm và tôi là người có ngồi ở nhà trường khá lâu, và có đọc sách cũng khá nhiều. Nguyễn Bảo Toàn là người đã làm báo, đóng vai chủ nhiệm (Dân Mới) có biết ngồi tù Côn Đảo chung với Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, v.v...
Vẫn biết đã có nhiều lần nói sơ qua trước, nhưng đây là lần quyết định, nên có quy định ngày giờ, vì không thể ở đây lâu ngày. Ngày thứ nhứt, thảo luận tổng quát. Ngày thứ nhì, đi sâu vào vấn đề. Tối lại, giao cho người soạn thảo Tuyên Ngôn và Chương trình. Sáng ngày thứ ba, hoàn chỉnh chung nhau. Chiều ngày thứ ba, quyết định và giải tán.
Mấy câu hỏi của Đức Thầy nêu lên về hoàn cảnh nước nhà có thực hiện chánh trị xã hội và dân chủ được chăng? Sự khác biệt giữa nước mình và Tây Âu? Có tổn thương tôn giáo không? Làm sao đề cao nhân phảm, v.v...
Phần tôi có trình bày đặc tánh nước mình không có tư bản như Âu Châu, vấn đề giai cấp đấu tranh không đặt ra. Mà có vấn đề quốc hữu hóa các đồn điền lớn, và tiết chế tư bản. Kinh tế sẽ đặt trên nguyên tắc “giàu chung” (quân phú) và đồng đều. Xã hội sẽ được tổ chức trên nền tảng công bằng, làm cho không có kẻ ăn không ngồi rồi (trợ trưởng giai cấp cần lao), và kẻ có ý bóc lột sẽ bị loại.
Nghiên cứu chánh sách công điền, chánh sách hương thôn, vai trò và ảnh hưởng của người cao niên trong xã hội (tức vai trò ông Cả trong làng), hiện đại hóa cái gọi là Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Vì trong đó đã có tinh thần chủ nghĩa xã hội và dân chủ (công bình và bình đẳng, trong Nhân có vấn đề trọng nhân phảm, trọng nghĩa công bình). Có xét qua vấn đề dân tộc tánh và xếp đặt gia đình trong xã hội. Làm sao tránh tệ đoan...
Nhưng tôi có thưa qua là: mình chỉ đặt nguyên tắc dẫn đạo tức principes directeurs, để về sau sẽ nhờ các bậc cao học nghiên cứu thêm. Do đó người đọc Chương trình và Tuyên ngôn Dân Xã Đảng không thấy có chi tiết.
Nhơn đây tôi xin bạn đọc chớ quên rằng Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ là một vị Giáo Chủ. Ưng nghe và thảo luận suốt ba ngày, ưng chánh trị hóa quần chúng của mình, không chấp nhận sự cuồng tín như ta đã thấy ở nhiều tôn giáo từ xưa và hiện nay, không chấp nhận độc tài đảng trị, không bỏ rơi người nghèo khổ, ưng làm những gì để thủ tiêu bất công xã hội, chống cộng mà không ưng tàn sát, thương người thương cả mọi người: quả tình là hiếm có. Mà sở dĩ có, theo tôi nghĩ, là nhờ truyền thống Phật Giáo, nhứt là miền Tây Nam Việt, như đạo Phật Thầy Tây An Bửu Sơn Kỳ Hương...
Danh sách Ban Chấp hành Trung ương đầu tiên của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng:
§ Tổng Bí thơ: Nguyễn Bảo Toàn (nhân sĩ)
§ ủy viên Ngoại giao: Nguyễn Văn Sâm (nhân sĩ)
§ ủy viên Chánh trị: Trần Văn Ân (nhân sĩ)
§ ủy viên Tuyên huấn: Lê Văn Thu (nhân sĩ)
§ ủy viên: Lâm Văn Tết (nhân sĩ)
§ ủy viên: Đỗ Phong Thuần (nhân sĩ)
§ ủy viên: Trần Văn Tâm (Phật Giáo Hòa Hảo)
§ ủy viên liên lạc: Lê Văn Thuận (Phật Giáo Hòa Hảo)
§ ủy viên: Huỳnh Giáo Chủ (Phật Giáo Hòa Hảo)
Điểm đáng lưu ý là trong số chín ủy viên Trung ương, chỉ có ba người Phật Giáo Hòa Hảo, kể cả Huỳnh Giáo Chủ, giữ các nhiệm vụ có tính chất yểm trợ. Các chức vụ trọng yếu về chính trị, ngoại giao, đều do các trí thức không phải tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.
Trong tài liệu Phật Giáo Hòa Hảo, có ghi một mảu chuyện về phản ứng lo ngại của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, và sự giải thích của Huỳnh Giáo Chủ như sau:
Khi các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tỏ vẻ lo ngại về việc giao trọn quyền điều khiển Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng cho những nhân sĩ ngoài Đạo, thì Đức Thầy nói rằng:
— Phàm đã hợp tác thì nên thành thật. Đã tín nhiệm thì phải giao phó nhiệm vụ, đặt để đúng chỗ, xứng với tài năng. Việc cứu nước là việc mình nên ủng hộ người ta làm, chớ đừng tÿ hiềm, tranh giành địa vị mà hư việc lớn. Mình nên thực tâm đem khối quần chúng hùng hậu của Phật Giáo Hòa Hảo mà ủng hộ các chiến sĩ cách mạng tranh đấu cho Đất nước.
THÀNH LẬP ĐẢNG VIỆT NAM DÂN CHỦ XÃ HỘI
Ngày 21-9-1946, Huỳnh Giáo Chủ và một số trí thức có khuynh hướng quốc gia, công bố việc thành lập chánh đảngViệt Nam Dân Chủ Xã Hội.
Phật Giáo Hòa Hảo là một tôn giáo. Chủ trương chung của tôn giáo là cải thiện con người, nhưng tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo lại mạnh dạn bước vào hai địa hạt: giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội. Có thể nói rằng vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã đề xướng một lần ba cuộc cách mạng:
§ Cách mạng con người.
§ Cách mạng giải phóng dân tộc.
§ Cách mạng xã hội.
Từ địa hạt siêu hình của tôn giáo, Phật Giáo Hòa Hảo bước vào địa hạt thực tiễn của xã hội. Khơi dậy lòng ái quốc của con người, ý thức họ nhập cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tranh đấu đánh đuổi thực dân Pháp, điều này vẫn còn nằm giữa ranh giới siêu hình và thực tế, vì yêu nước là một tình cảm, và tinh thần đấu tranh thể hiện lòng ái quốc vẫn thường mang tính chất trừu tượng. Nhưng bước vào địa hạt cách mạng xã hội, là bước từ siêu hình sang thực tiễn. Cách mạng xã hội phải có lý thuyết và hành động thực tiễn, không thể siêu hình hay trừu tượng như tôn giáo và ái quốc.
Cho nên sự ra đời của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng vào ngày 21-9-1946 được xem là một quyết định quan trọng, và cũng là một chuyển hướng mới của Phật Giáo Hòa Hảo. Dư luận vẫn cho rằng Phật Giáo Hòa Hảo là một đạo nhập thế, nhưng nhập thế ở mức độ tiêu cực hay tích cực? Nhập thế trên bình diện tôn giáo hay trên các bình diện khác của sinh hoạt xã hội?
Phật Giáo Hòa Hảo có sẵn điều kiện cơ bản về tổ chức để chuyển thành một chánh đảng. Khác với đạo Phật nói chung tại Việt Nam, Phật Giáo Hòa Hảo là một khối quần chúng có tổ chức thành hệ thống hàng ngũ (an organized mass), chớ không phải chỉ là một khối quần chúng tâm lý (a psychological mass). Sự khác biệt giữa hai loại quần chúng có tổ chức và quần chúng tâm lý là: quần chúng hướng về một giáo lý hay chủ thuyết, nhưng không minh bạch liên kết thành một tổ chức có hệ thống chặt chẽ. Đây là quần chúng tâm lý, không có sự ràng buộc chặt chẽ, kyœ luật chặt chẽ để trở thành một khối đồng nhứt.
Trái lại, quần chúng có tổ chức thể hiện sự hưởng ứng tư tưởng và tâm lý thành hình thức gia nhập tổ chức, chấp nhận đặt mình trong hệ thống của tổ chức, chịu kyœ luật và lãnh đạo chung của tổ chức, hành động theo chỉ thị của cấp lãnh đạo.
Thí dụ cụ thể, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là quần chúng tâm lý của đạo Phật, nhưng là quần chúng có tổ chức của Phật Giáo Hào Hảo, hành động theo đường lối, chỉ thị ban hành bởi cấp chỉ đạo hệ thống Phật Giáo Hòa Hảo.
Nói chung, tại Việt Nam, quần chúng các chánh đảng là quần chúng có tổ chức, quần chúng các tôn giáo là quần chúng tâm lý. Trường hợp đặc biệt và ngoại lệ: hai tôn giáo Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo, tuy là tôn giáo, nhưng lại là hai khối quần chúng có tổ chức. Cả hai tôn giáo này tích cực nhập thế, tham gia các hoạt động cách mạng, chánh trị, kể cả hình thức cao nhất là võ trang thành lập các đơn vị quân sự, theo nhu cầu của giai đoạn đấu tranh đặc biệt từ 1940 về sau.
Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội ra đời năm 1946 là cái mốc đánh dấu bước tiến của tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo vào cách mạng xã hội. Phần tài liệu trích dẫn sau đây nói về lược sử của chánh đảng này:
Ngày 21-9-1946, Đức Huỳnh Giáo Chủ loan báo một tin quan trọng: Ngài thành lập một đảng chánh trị lấy tên là VIỆT NAM DÂN CHủ XÃ HỘI ĐảNG, gọi tắt là DÂN XÃ ĐảNG.
LÝ DO THÀNH LẬP
Vài ngày trước khi công bố, Đức Huỳnh Giáo Chủ có đòi một số tín đồ tín cản từ miền Tây lên, và ngài dạy rằng:
1. Việt Minh tranh đấu chánh trị, nếu Thầy đem đạo (Phật Giáo Hòa Hảo) ra tranh đấu thì không thích hợp. Vì đạo lo tu hành chơn chất. Nên Thầy phải tổ chức đảng chánh trị, mới thích ứng nhu cầu tình thế nước nhà.
2. Các nhà ái quốc chơn chánh trong nước mặc dầu nhận Thầy là một nhà ái quốc, nhưng không hề cùng hiệp chung với Thầy dưới danh nghĩa Phật Giáo Hòa Hảo để lo việc quốc gia, bởi lẽ anh em ấy không thể tu hành như mình, hoặc giả đã có đạo rồi thì không thể bỏ đạo quy y Phật Giáo Hòa Hảo. Vì vậy, Thầy phải tổ chức chánh đảng để anh em ấy có điều kiện tham gia. Họ chỉ phải giữ kyœ luật của Đảng mà thôi, còn tôn giáo thì riêng ai nấy giữ.
3. Vậy tất cả anh em tín đồ, nếu thấy mình còn nặng nợ với Non sông Tổ quốc, thương nước thương dân, hãy tham gia đảng (VNCHXHĐ) mà tranh đấu. Đây là phương tiện để anh em hành xử Tứ-Ân.
(Dẫn trích theo lời tường thuật của ông HHP, trình bày cuộc diện kiến Đức Huỳnh Giáo Chủ tại Chợ Lớn, để đem thông điệp truyền khảu của Ngài về miền Tây phổ biến cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo).
Ba điểm trên đây là những lời giải thích của đức Huỳnh Giáo Chủ cho các tín đồ hiểu rõ lý do Ngài khai sanh Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng. Nghiên cứu sâu vào phần lý luận, sự ra đời của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng phát sanh từ các căn bản sau đây:
— Về NGUYÊN LÝ: Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng thoát thai từ căn bản giáo lý Tứ Đại Trọng Ân, gọi tắt là Tứ Ân, xiển dương bởi Đức Phật Thầy Tây An trước kia (1849-1856), và Đức Huỳnh Giáo Chủ (1939 về sau). Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo hành xử Tứ Ân, có bổn phận tích cực đền đáp Ân Đất nước và Đồng bào.
Từ giáo lý Tứ Ân, Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng ra đời như một phương tiện cần thiết và thích nghi cho người tín đồ đền đáp Ân Đất nước và Đồng bào.
— Về CHỦ THUYẾT: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng phát sanh từ quan niệm căn bản: dung hòa ưu điểm của chủ thuyết dân chủ tự do với ưu điểm của chủ thuyết kinh tế xã hội hóa. Việt Nam không thể là một xã hội vô sản như chủ thuyết cộng sản, cũng không thể là một xã hội tư bản để kẻ mạnh hiếp đáp bóc lột kẻ yếu kém. Chủ thuyết dân chủ xã hội nhằm thực hiện một xã hội dân chủ có tự do cho con người, đồng thời có công bằng về quyền lợi kinh tế.
Trong hoàn cảnh 1945-1946, nhiệm vụ trước mặt của toàn dân là đánh đuổi thực dân Pháp, nhưng nếu sau khi độc lập rồi, mà dân tộc Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống trong bất công, nghèo khó, vẫn bị mất tự do, bị kềm kẹp, thì chưa có giải phóng thực sự. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời là một tiên liệu sáng suốt vạch trước cho dân tộc con đường thích hợp, sau giai đoạn giải phóng đất nước, là giai đoạn giải phóng con người, xây dựng lại một đất nước độc lập, phú cường, với một xã hội Việt Nam công bằng và tự do.
— Về CHIẾN THUẬT: Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời như một nhu cầu khản thiết của tình thế lúc đó. Các đảng phái cách mạng Việt Nam ra đời trước đó thể hiện mạnh mẽ khuynh hướng giải phóng quốc gia hơn là biểu lộ đường lối xây dựng xã hội Việt Nam thích nghi với hoàn cảnh thế kyœ 20. Trong khi đó, đảng Cộng Sản Đông Dương tuy nêu cao chiêu bài ‘’Độc lập, Tự do, Hạnh phúc’’, nhưng đã nuôi sẵn hậu ý đưa xã hội Việt Nam đến một chế độ vô sản chuyên chính. Thanh niên Việt Nam lúc đó, với lòng yêu nước nồng nhiệt, say sưa chiến đấu vì độc lập đất nước, đang bị Cộng Sản đầu độc bằng chủ nghĩa Mác Lê, có thể nhận định sai lầm mà cho rằng Cộng Sản chủ nghĩa là xuất lộ duy nhứt cho tương lai Việt Nam.
Đó là một nguy cơ trầm trọng. Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ra đời vừa để vạch một chủ trương tiến bộ dựng nước, cũng vừa là liều thuốc đề kháng vi trùng Cộng Sản, giải độc cho lớp thanh niên đang sắp bị sa vào cạm bẫy Cộng Sản.
Do đó, có thể xem sự thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng là một chiến thuật đối đầu với chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, đối phó hiểm họa xích hóa Việt Nam.
Tóm lại, sau đây là những lý do chánh yếu thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng:
1. Tạo môi trường hợp tác giữa Phật Giáo Hòa Hảo và các nhà ái quốc chơn chánh để tăng cường hiệu năng kháng Pháp (phối hợp giữa quần chúng và trí thức).
2. Vạch một chủ trương tiến bộ để xây dựng đất nước sau khi thâu hồi độc lập.
3. Đối kháng âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng Cộng Sản Đông Dương.
4. Tạo môi trường thích hợp cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia đấu tranh, hành xử Tứ Ân.
5. Trong thời điểm ấy, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng được xem là một đảng tiến bộ, và cũng vì thế bị Cộng Sản xem như một đối thủ nguy hiểm cần phải diệt trừ.
QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG VIỆT NAM DÂN CHỦ XÃ HỘI ĐẢNG
Trong lịch sử hình thành chánh đảng, chưa bao giờ có sự kiện đặc biệt như tiến trình thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, lập tức có ngay trên một triệu đảng viên. Cũng chưa có chánh đảng Việt Nam nào có số đảng viên cao đến cả triệu người. Chỉ một thông điệp truyền khảu của Đức Thầy ban ra, khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trở thành trên một triệu đảng viên Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.
Mặc dầu phải hoạt động bí mật, đương đầu với sự khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp, hệ thống Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng đã bành trướng, các công tác cách mạng của đảng đã được thực hiện một cách hiệu quả, trong thời gian kyœ lục, để kịp thời ứng phó với một tình thế dầu sôi lửa bỏng.
§ Thành lập Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Bộ, ngay tại thủ đô Saigon, mà vẫn hoạt động bí mật.
§ Thành lập Ban Chấp Hành Liên Tỉnh Miền Tây Nam Việt để lãnh đạo trực tiếp công cuộc chiến đấu của Đảng tại các tỉnh miền Tây.
§ Thành lập hệ thống Ban Chấp Hành Đảng từ Tỉnh, Quận đến mọi Xã.
§ Phát hành nhựt báo Quần Chúng làm cơ quan tuyên huấn cho lý tưởng Dân chủ Xã hội, với đường lối vừa chống Thực dân vừa chống Cộng sản. Cũng là diễn đàn tranh đấu chống lại âm mưu chia cắt đất nước lúc đó của thực dân Pháp. Báo Quần Chúng mỗi ngày được vận chuyển qua một hệ thống đặc biệt đưa từ Saigon về các tỉnh miền Tây, phân phối tận các xã.
§ Tổ chức lớp huấn luyện cán bộ Dân Xã. Lớp đầu tiên đào tạo những thanh niên cán bộ nòng cốt, được tổ chức ngay tại Chợ Lớn, dưới hình thức lưu động liên tiếp để tránh màn lưới mật thám Pháp.
§ Tổ chức cơ quan huấn luyện chánh trị và quân sự ở miền Tây để đào tạo cán bộ điều hành hệ thống Ban Chấp Hành đảng.
§ Yểm trợ tiếp liệu và tình báo cho các đơn vị quân sự chiến đấu ngoài mặt trận.
§ Thiết lập hệ thống liên lạc bí mật từ thành ra chiến khu, từ Trung Ương đến các cấp, để phối hợp công tác, chuyển vận tài liệu, chỉ thị.
§ Đề cử đại diện Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tham gia các ủy ban Hành chánh Kháng chiến các cấp, để tăng cường hiệu năng chiến đấu chống Pháp.
Trước sự bành trướng thần tốc và sâu rộng của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Cộng Sản và thực dân Pháp tìm mọi cách để cản trở, phá hoại. (Một điều đặc biệt cần ghi lại, là không phải chỉ các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo gia nhập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, mà phong trào dân chúng, nhứt là giới thanh niên ngoài đạo Phật Giáo Hòa Hảo cũng hưởng ứng tham gia Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng rất nhiều, khiến cho Cộng Sản rất lo ngại. Các giới bên ngoài hưởng ứng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng vì nhận thức tánh chất tiến bộ và thích nghi của chủ trương Dân Chủ Xã Hội). Thủ đoạn sâu độc nhứt của Cộng Sản lúc đó là mượn tay quân đội Pháp để bắt bớ cán bộ Dân Xã, tiêu hủy cơ sở Dân Xã, khủng bố tàn nhẫn những vùng đông đảo tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Cộng sản tìm cách gài nhân viên vào hệ thống mật thám Pháp, đưa tin cho phòng nhì hay công an Pháp biết về địa điểm, cán bộ, tổ chức và sanh hoạt của Dân Xã, để quân đội Pháp kéo đến khủng bố, tiêu hủy nhà cửa, bắn giết dân chúng. Ngay tòa soạn báo Quần Chúng cũng bị liệng lựu đạn.
Cũng vì dã tâm đó mà tình thế trở nên căng thẳng giữa Dân Xã và Việt Minh Cộng Sản, đưa đến những xô xát đẫm máu vào đầu 1947. Trong tình huống đó, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tiên liệu sự bế tắc của cuộc kháng chiến, và nguy cơ độc tài đảng trị của Cộng Sản, cho nên đã quyết định phái đại diện của đảng, bí mật xuất ngoại đi Trung Hoa, Hồng Kông gặp Cựu hoàng Bảo Đại, cùng đại diện các đảng phái quốc gia thảo luận về sự hình thành một giải pháp quốc gia thay thế vai trò Cộng Sản Việt Minh. Một mặt trận ra đời tại Nam Ninh, ngày 27-2-1947 lấy tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc.
Để cứu vãn một tình trạng nguy hiểm, một ủy ban Hòa giải được thành lập để giải quyết những vụ xung đột giữa Dân Xã và Việt Minh ở miền Tây. Nỗ lực này bị vô hiệu hóa bởi sự thiên vị trong thành phần ủy ban, và bởi ý định của Cộng Sản nhứt định đánh phá để tiêu diệt Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng.
Sau hết, Đức Huỳnh Giáo Chủ phải quyết định thân hành về miền Tây để giải quyết tình thế căng thẳng tột đô. Và, như mọi người đã biết, Cộng Sản Việt Minh âm mưu ám hại Ngài, ngay trong lúc Ngài hội nghị với họ (16-4-1947)
Gửi ý kiến của bạn