Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 5

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 42334)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 5

Cho ông PHAN THANH-LONG

Long rày năm mới thiệt là rồng.
Mèo-mả bạc-bài bỏ được không?
Hiệu, Khuynh cùng gã mau liền lại,
Kẻo để ngày sau chịu não-nồng.

Trường học Phú-An, ngày 24-1 Canh-Thìn

DIỆT TIỀN KHIÊN

Bồng-Lai như khứ khổ nan truyền,
Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên.
Quốc-thủy dài chương trung liệt cổ,
Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên.

Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn,
Danh tiên liễu bá định hồi yên.
Vị phi lai tục đa ưu lự,
Sơn hải diền viên tất tảo nan.

Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn

ĐỂ CHƠN ĐẮT BẮC

Để chơn đất bắc Thầy trò,
Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao.
Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao,
Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam.
Chúng dân tựu ngũ tùng tam,
Kẻ ma người mị kẻ ham người cười.
Làng nầy đông-đúc nhiều người,
Dân tình cũng được đôi mươi tu hành.
Nhiều người già cả lòng lành,
Có nhiều kỳ lão biết rành tích xưa.
Tới đâu cũng it người ưa,
Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành.
Trưng bày tích cũ đành-rành,
Thiên-cơ đạo-đức tu hành phận tôi.
Dân quê nghe nói hỡi ôi!
Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo.
Đâu đây mà có hùm beo,
Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì?
Thấy trong lê-thứ cũng kỳ,
Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ.
Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ,
Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm riềng.
Cũng không thèm trọng bạc tiền,
Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi.
Bắc-kỳ dân ít mép-môi,
Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-chề.
Thương dân nên chịu nặng-nề,
Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao.
Tớ thầy nào nệ cần-lao,
Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn.
Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng,
Tam cang trung-trực người rằng ngu-si.
Viết ra mới bốn bài thi,
Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên.
Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên,
Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng.

THƠ rằng:

Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn,
Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn.
Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,
Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.

Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần,
Cồ quán thôn-hương nhứt dị nhân.
Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa,
Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.

Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền,
Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên.
Kiển-sám truyền danh lưu hậu thế,
Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên.

Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà,
Cổ súy lương thần vị phong ca.
Thọ tử tâm trung trưng hùng khí,
Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.

Bốn bài thơ đã làm xong,
Văn-nho bàn-bạc nhiều ông lắc đầu.
Nghĩ ra mới biết cơ cầu,
Người chi thi-phú công-hầu cổ nhơn.
Nghiệm suy lời lẽ thiện hơn,
Dặn-dò bá tánh thi ơn xóm làng.
Nào ta có nói bướng càn,
Về An-Giang tỉnh rõ ràng ai hay.
Từ đây Nam Bắc chuyển quay,
Khi đây khi đó ra tài khuyên dân.
Tuần-huờn tạo hóa cầm cân,
Ở đây cũng dạy hương-dân đủ đều.
Xác nghèo nhà tợ cái lều,
Cơ-hàn rách-rưới nhiều đền nan nguy.
Tuy là gia-trạch hàn-vi,
Nhưng mà hiền-đức khác gì người xưa.
Nhiều người lối xóm đẩy-đưa,
Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài.
Nước tràn ruộng lúa lạc loài,

Bắt đầu lo chuyện miệt-mài bắp khoai.
Giáo-truyền lời lẽ thẳng ngay,
Hương-lân trùm-trưởng đắng cay nhiều bề.
Thầy trò ra sức làm hề,
Ca tuồng ly-loạn dựa kề biên-cương.
Có nhiều chệc khách Minh-hương,
Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu.
Chú lùn Nhựt-Bổn hùng-hào,
Chẳng thương sanh-mạng dân Tàu dại ngu.
Bởi chưng hung-bạo chẳng tu,
Cho nên gây sự lu-bù chiến-tranh.
Bắc-Kỳ Trung-Quốc giáp ranh,
Sao không xem đó tu hành hiền lương.
Cá không ăn muối cá ươn,
Chẳng nghe lời dạy lâm đường chông gai.
Hát tuồng Trung-Quốc quá dai,
Ta bèn bỏ bản hát bài đà-tinh.
Cả kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
Từ đây nhẫn nại chống kình làm chi.
Bút nghiên lôi lại làm thi,
Đặng cho sanh-chúng bớt nghi tinh-tà.

Cổ qui tài tận hận do Tần,
Thiện chí tu trì lập vĩ thân.
Tồn tại hư vô tầm Bát-nhã,
Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.

Điền tan gia phế tế nhiên hàn,
Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang.
Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo,
Bần phú cơ đồ bất tự sang.

Nôn nải kìa ai nhọc mưu cầu,
Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu.
Kiên cố của tiền thiên đạo lý,
Cấp hồi ái truất trót canh thâu.

Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài,
Biên hình liên huệ tất ư giai.
Kiệm kỷ tha lam mi hài-chí,
Long trì phi ẩn tạo kiền khai.

Ngạo cảnh du vân triện Bắc-hà,
Quá khứ trú đình vịnh ngân ca.
Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,
Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa.

Thâm canh bất mến công hầu,
Trông cho lê tứ gặp chầu vinh-huê.
Ở đâu dân cũng còn mê,
Tham câu danh lợi khó kề Thần-Tiên.

Tư lương một mối sầu riêng,
Long thiền đãi ảnh vị thiên cô phần.
Ngảnh ngao tái chí thi ân,
Biện minh chí hứng đền lân dựa kề.

Huy hoàng hương nến tự thiên chi,
Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ.
Lôi chất khai âm vô sắc thí,
Ngại hồi bi hiện án tiền phi.

Rừng thông bên cạnh gần kề,
Bôn-phi lê-thứ nhiều bề gian-nan.
Bắc-kỳ còn hỡi hò khoan,
Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng.
Thấy đời cũng luống động lòng,
Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi.
Dạo miền thành-thị một khi,
Chán-chê thế sự sầu-bi trong lòng.
Ca xang thảm cảnh não-nồng,
Cả kêu dân-chúng Lạc-Hồng hỡi ơi!
Giống xưa Tiên cảnh tuyệt vời,
Ngày nay đã lạc đạo đời nhuốc-nhơ.
Người hiền nghe thấu ngẩn-ngơ,
Đớn đau sắp đến bơ-vơ một mình.
Muốn xem được hội Long-Đình,
Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn.
Ở ăn cho vẹn mười ơn,
Cảnh tình hiền-đức gặp cơn khải hoàn.
Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
Sum vầy một cuộc Hớn đàng toại thay.
Người nào vẹn được thảo ngay,

Dựa kề cửa Thánh đài mây an nhàn.
Khuyên răn cuối xóm cùng làng,
Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi.
Việc đời nhiều nỗi sầu-bi,
Hạ-nguơn đã hết loạn-ly cơ đồ.
Bây giờ còn hỡi mờ-hồ,
Chẳng nghe dạy chỉ cơ-đồ về sau.
Thử xem cho biết vàng thau,
Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng.
Tu hiền như thể phụng rồng,
Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay.
Bây giờ rán chịu đắng cay,
Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên.
Đạo đời nào có tư riêng,
Minh-Vương sửa trị mới yên ngôi Trời.
Xa-xăm các chỗ các nơi,
Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên tri.
Kẻ hung ngạo-nghễ khinh khi,
Nữa sau đến việc sầu-bi nhiều bề.
Tớ Thầy non núi dựa kề,
Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên.
Quyết lòng rửa sạch tiền khiên,
Ra oai ra lực hùng-yên mới là.
Bây giờ còn liệu tây tà,
Cho nên đạo-đức khó mà cạn phân.
Nam-thiền báu ngọc châu trân,
Phật Tiên phân định tấm thân mới nhàn.

Duyên sự đê-mê cảnh Hớn-đàng,
Lần dò cho thấu nẻo Tiên-bang.
Xuê-xang mấy kiểng nhìn sương gió,
Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn.

Mê-man danh-lợi cõi hồng trần,
Có một hội nầy lập lấy thân.
Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,
Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần.

Huyền-vi cơ đạo kiến linh kỳ,
Tự thán dướng-trần tốc kham bi.
Vô vị phi liên tâm phế kỷ,
Điểm hồng nê địa tự thiên chi.

Chừng nào thấy được phụng hoàng,
Rrồng chầu chớp-nháng Hớn-đàng hiển-vinh.
Sớm chiều rèn đúc kỉnh-tinh,
Ngày sau mới thấp phép linh của Trời.
Ai ai cũng ở trong đời,
Chốn nào không đạo là đời vô liêm.
Xét suy cho cạn cổ kim,
Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.
Ta đây ưa ghét mặc tình,
Dương-gian cứ mãi chống-kình làm chi.
Chừng nào thượng-cổ hồi qui,
Thế-trần mới hết khinh-khi Phật Trời.
Tu hành đạo-đức rao mời,
Như người ngu dại với đời loạn-ly.
Ở sao cho biết tôn-ti,
Dể-ngươi Phật Thánh sầu-bi mãn đời.
Khùng-Điên ẩn-nhẫn tùy thời,
Có-cơn giả dạng dắt đời hạ-nguơn.
Mặc tình ai nói thiệt hơn,
Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời.
Luân phiên Thầy Tớ tách vời,
Chẳng nài lao-lý miễn đời bình an.
Tiếng đờn hò liếu cống xang,
Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh.
Buổi nay nhằm lúc vắng thanh,
Lời ta khuyên đó như cành ghẹo chim.
Trau dồi đúng bực thanh liêm,
Nữa sau mới biết thành kim đền đài.
Việc đời nhiều lúc khôi-hài,
Quyết lòng cho thế một bài học hay.
Chuyển miền Nam địa lung-lay.
Nam Trung cùng Bắc một tay giáo dời.
Thiếu ai mà bị réo mời,
Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên thinh.
Trớ-trêu phải mượn kệ kinh,
Mặc tình dân-sự biện minh lẽ nào.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn