Có việc chi vội-vã dời ta,
Khá nói lại đầu đuôi tường tất.
Bà thuật rõ chiêm bao trong giấc,
Xin vua vời ít kẻ bàn giùm.
Các thầy bàn được lịnh vào cung,
Nghe xong-xả tâu rằng điềm quí.
Ngày thắm-thoát đông qua hạ chí,
Bà trổ sanh Thái tử đẹp tươi.
Mặt trang-nghiêm khí-phách hơn người,
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ.
Họ Thích-Ca từ đây cũng ngỡ,
Sẽ có người nối nghiệp hoàng-gia.
Liền đặt tên là Sĩ-Đạt-Ta,
Cả triều chính treo hoa yến ẩm.
Có nhà sư cách thành mấy dặm,
Thường ở ăn trong sạch hiền-từ.
Lòng thẳng ngay chẳng có vị tư,
Đời thanh tịnh gìn theo Đạo-lý.
Ông lại được Thần Tiên dẫn chỉ,
Hiểu thiên-cơ thấu mối diệu-huyền.
Ông là người Bà-la-môn tiên,
A-Tư-Đà tiên hiền tên lão.
Thời buổi ấy vua ưa người Đạo,
Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng.
Xin vua cho ông bước vào trong,
Được yết-kiến tử-hoàng luôn thể.
Ông xem xong bỗng liền sa lệ,
Vẻ mặt buồn chẳng thốt ra lời.
Thấy lạ-lùng vua bước đến nơi,
Liền phán hỏi bảo ông phân rõ.
Trước cung-điện ông liền bày tỏ,
Rằng tử-hoàng chừng được thành nhơn.
Lìa đền-đài khổ-cực chẳng sờn,
Tìm Đạo-lý dắt-dìu sanh-chúng.
Ngài sẽ được thế-gian ca tụng,
Chắc phần Ngài quả Phật vẹn tròn.
Buồn vì tôi tuổi lớn sức mòn,
Chẳng sống đặng nghe lời Phật thuyết.
Cả hồng-trần đau-thương thống-thiết,
Nhờ Ngài mà diệt nẻo luân-hồi.
Vô phước nên tủi bấy phận tôi,
Chớ chẳng có điều chi lo ngại.
Đức Hoàng-hậu đến ngày thứ bảy,
Dứt nợ trần nên vội qui tiên.
Có bà dì thay thế mẹ hiền,
Giùm săn-sóc trông-nom Thái-tử.
Khi lớn lên cho người dạy chữ,
Lúc vào trường chẳng học mà thông.
Buổi trưởng thành vua vẫn hằng mong,
Cho Thái-tử đừng lìa cung-điện.
Hội triều-đình các quan lựa tuyển,
Nàng Du-Gia được chọn kết hôn.
Vua nghĩ rằng muốn tâm yên-ổn,
Chọn cung-phi mỹ-nữ làm trò.
Cất đền-đài lộng-lẫy đẹp to,
Ngày ca múa đêm bày lơi-lả.
Lòng Thái-tử cũng không xiêu-ngả,
Ra khỏi đền du ngoạn một khi.
Buổi đầu tiên gặp những chuyện gì,
Gặp cụ lão tay nương gậy chống.
Ngài xem qua lòng bèn cảm-động,
Lần thứ hai thấy kẻ ốm đau.
Xét cõi trần trong dạ héo xào,
Chi xiết nỗi núng-nao cõi tạm.
Lần thứ ba xe lìa khỏi trạm,
Được trông nhìn kẻ chết đang khiêng.
Về đền-đài cảm xúc buồn riêng,
Hằng để trí tầm phương giải-thoát.
Lần thứ tư vừa đi dạo mát,
Bỗng gặp người tốt đẹp trang-nghiêm.
Nào dè đâu Trời đã ứng điềm,
Giả tăng-sĩ gợi lòng Thái-tử.
Ngài hiểu rõ ấy là phận-sự,
Phải xuất gia tầm Đạo mau mau.
Liền quày xe trở lại lai trào,
Xin Vương-phụ lánh xa mùi thế.
Vua buồn thảm dùng lời khóc kể,
Rằng: Cha già biết cậy nhờ ai.
Khuyên con nên ở chốn điện-đài,
Lo nối nghiệp sau tu chẳng muộn.
Lòng Thái-tử quyết theo ý muốn,
Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng.
Lìa cha già, vợ đẹp, con cưng,
Thân chẳng sá xông-pha bờ bụi.
Ngài thuở ấy nên mười chín tuổi,
Tâm đại-hùng cương-quyết tu-trì.
Trải bao phen lao-khổ xiết chi,
Sau Ngài đến Rạch-Ni Liên-Thuyền.
Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham-thiền,
Ngồi khổ-hạnh sáu năm bên ấy.
Đạo gần đắc Ma-Vương theo khuấy,
Dùng thần-thông nghị-lực dẹp tan.
Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn-toàn,
Và lần bước phô-trương độ chúng.
Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
Các chúng-sanh đều có như Ta.
Bị vô-minh vọng-tưởng vạy-tà,
Nên quay lộn Ta-bà cõi khổ.
Lòng thương chúng thuyết-phương
Tịnh-độ,
Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-Quốc.
Cả vũ-trụ khắp cùng vạn-vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc-sanh.
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng-hành,
Được cứu-cánh về nơi an-dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây-phương hồi hướng,
Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi.
Xét cõi trần sống khổ giạt-trôi,
Vô lượng thứ ở trong thế-giới.
Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại,
Ta-bà khổ, Ta-bà lắm khổ.
Có bao người xét cho tột chỗ,
Tịnh-độ vui, Tịnh-độ nhàn vui.
Cảnh thanh-minh sen báu nặc mùi,
Nào ai rõ cái vui triệt đáo.
Vì phần Ta rất yêu-mến Đạo,
Chẳng nệ chi trí siển tài sơ.
Lấy lời xưa kết lại ít tờ,
Cho thiện-tín rỗi nhàn xem-xét.
Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét,
Rán cần chuyên niệm Phật làm lành.
Thường trau-giồi chí-hướng cao-thanh,
Cho khỏi thẹn con lành Phật-Giáo.
Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo :
Khổ Ta-bà nhiếp lại tám phần.
Bởi chúng-sanh mang lấy xác thân,
Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc.
Vào bụng mẹ chung quanh bao-bọc,
Có khác nào ở chốn ngục tù.
Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu,
Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.
Ta kể sơ những điều bi-thống,
Mẹ no cơm chật-chội khó-khăn.
Khi ra đời đau-đớn vô ngằn,
Cất tiếng khóc nếm mùi dương-thế.
Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể,
Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân.
Hết tráng-cường đến lúc mòn thân,
Răng lần rụng lưng cong gối mỏi.
Nằm đi đứng đỡ nưng chống chỏi,
Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng ?
Đoạn thứ ba ma Bịnh làm nhăng,
Đeo hành phạt xác thân ô-uế.
Bởi thời-thế chuyển xây biến-thể,
Thêm uống ăn chẳng được điều-hòa.
Là nguyên-nhân căn bịnh phát ra,
Thân trằn-trọc hôn mê nhức-nhối.
Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi,
Còn mang thêm tật nọ tật kia.
Rồi từ đây đến lúc chia lìa,
Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải.
Trên dương-thế hữu hình tắc hoại,
Có sanh ra khổ-hải đâu chừa.
Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
Ngày kiệt sức huyễn thân tan-nát.
Gần hấp-hối tâm-thần xao-xác,
Trí vẩn-vơ kinh-sợ vô cùng.
Rồi mòn lần đến lúc lâm-chung,
Giã cõi tạm theo đường tội phước.
(Kiểm bài ngày 21-9-2010)