Tưởng Niệm Húy Nhật Thứ 138 Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực.

11 Tháng Mười 200612:00 SA(Xem: 17177)
Tưởng Niệm Húy Nhật Thứ 138 Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực.

Nguyễn Hoài Ân.

Có ai xuôi bước về miền Tây, khi có dịp dừng chân qua vùng Tân An, Bến Lức hay miệt Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc. Thỉnh thoảng ta nghe người dân địa phương ngâm nga hai câu thơ của cụ Huỳnh Mẫn Đạt.
 
          Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,
          Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỉ thần.
 
  Làm cho ta không khỏi bùi ngùi, xúc động. Khi gợi nhớ đến người anh hùng áo vải đất miền Nam, có công dựng cờ khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm người Pháp, cách đây trên 138 năm. Đó là Ngài Nguyễn Trung Trực.
  Ngài Nguyễn Trung Trực sinh năm 1838 (năm Mậu Tuất) tại huyện Cửu An, phủ Tân An, thuộc tỉnh Long An ngày nay. Thuở nhỏ Ngài tên là Chơn, sau cải lại là Lịch, rồi đổi ra là Nguyễn Trung Trực. Ngài gia nhập vào hàng ngũ nghĩa quân rất sớm, giữ chức đội trong đội quân chống Pháp giữ thành Sài Gòn, Gia Định.
  Ngày 10, 11 tháng 2 năm 1859, chiến hạm Pháp bắn phá các hải đồn của ta từ Vũng Tàu đến Cần Giờ, ngày 15 tiến đến Nhà Bè, ngày 16 tới Tân Thuận Đông, ngày 17 họ thám sát phía Bắc Sài Gòn. Ngày 18 tấn công thành Gia Định, ngày 19 thành Gia Định mất(1). Tổng Đốc Võ Duy Ninh tử trận. 
  Ngài Nguyễn Trung Trực gom góp một số thuộc hạ thân tín và chiêu mộ thêm những tráng niên hào kiệt, anh hùng có lòng yêu nước, rút về vùng Tân An, Bến Lức rồi mở rộng tằm hoạt động ra đến Thủ Thừa, Tân Uyên, Long Thành, Gò Công và Tây Ninh.
  Ngay giữa xế, ngày 11 tháng 12 năm 1861, lợi dụng quân Pháp ngủ trưa, Ngài cùng 150 nghĩa binh dùng ba ghe lớn giả dạng đám cưới và xuồng nhỏ núp sẵn trong rừng lá ở hai bên bờ sông, tại vàm sông Nhật Tảo, xông ra dùng hoả công thiêu rụi chiến hạm Espérance của Pháp, thuộc quyền chỉ huy của viên trung tá Pháp là Parfait(2). Năm đó Ngài mới 23 tuổi.
  Để hiểu rõ chiến công oanh liệt, hiển hách cùng sự khó khăn trong suốt 10 năm (1859-1868) kháng Pháp của Ngài. Tôi xin sơ lược qua tình hình nước ta vào thời bấy giờ.
  Ngày 24 tháng 10 năm 1860, Pháp ký hoà ước bãi binh với triều đình nhà Thanh, Pháp rảnh tay ở Trung Hoa. Ba tháng sau, tức vào ngày 24 tháng 1 năm 1861, Pháp kéo toàn lực của Pháp ở Trung Hoa vào Nam Kỳ, Pháp quyết tâm chiếm xứ nầy để làm thuộc địa. Lực lượng của Pháp gồm có 70 chiến hạm và tàu tiếp vận, 3.500 lính, 17 đội thủy quân lục chiến, hai tiểu đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn lính Tàu mộ ở Quảng Đông và Tourane, 12 đại đội thủy quân trọng pháo(3). Ngày 7 tháng 2 năm 1861 đến Sài Gòn, vài hôm sau quân Pháp đánh chiếm đồn Kỳ Hoà (tức Chí Hoà).
  Hoà ước ngày 5 tháng 6 năm 1862, ký giữa sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Đức Hiệp với đại diện Pháp, nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông là: Biên Hoà, Gia Định và Định Tường. Năm 1864 lảnh tụ Trương Công Định ở Gò Công mất, Thủ Khoa Huân bị đày đi đảo Réunon, năm 1866 lực lượng của Thiên Hộ Dương, tức Võ Duy Dương ở Đồng Tháp bị tan rã. Vùng Tân An, Bến Lức bị địch càng quét dữ dội. Ngài Nguyễn Trung Trực phải lui quân về Hòn Chông, cách Hà Tiên vào khoảng 15 cây số, dùng kế nghi binh, án binh bất động để củng cố lực lượng. Đồng thời, Ngài bí mật đưa một lực lượng nghĩa binh nhỏ thọc sâu về vùng Rạch Gía, đóng tại Tà Niên (4). Nghĩa binh toả ra dưới dạng nông dân, làm cây, đốn củi, giăng câu, đặt lờ để móc nối với dân chúng, dọ thám địch tình, chuẩn bị đánh lớn.
  Được ba tỉnh miền Đông, nhưng tham vọng của Pháp không ngừng lại ở đây. Ngày 20-6-1867 chiếm Vĩnh Long, ngày 22-6-1867 chiếm An Giang, khiến cho Đức Cố Quản, tục danh là Trần Văn Thành thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương, đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An phải rút về Láng Linh, lập mặt trận Bảy Thưa, đặt Tổng Hành Dinh tại Long Châu, gần Ô Long Vĩ, thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, quận Châu Phú, tỉnh An Giang ngày nay. Ngày 24-6-1867 chiếm Hà Tiên. Cũng trong thời gian nầy, Ngài Nguyễn Trung Trực được triều đình Huế phong chức Thành Thú Úy Hà Tiên, nhưng Ngài chưa kịp nhậm chức thì thành Hà Tiên bị mất, trước tình cảnh bi đát đó, khiến cho nhà thơ ái quốc Nguyễn Đình Chiểu bị mù lòa cả đôi mắt, buồn rầu, câm phẩn, tức giận mà thốt.
 
         Căm hận bấy mẹ già ngồi khóc trẻ,
         ngọn đèn xanh leo lắt trong lều.
         Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng,
         con bóng xế, dật dờ trước ngõ(5).

                          
  Như vậy, đất Nam Kỳ có lục tỉnh bị Pháp chiếm trọn. Trước sự thống khổ của toàn dân, Triều đình Huế thì bất lực.
  Đêm 15 rạng 16 tháng 6 năm 1868, lợi dụng sự sơ hở của Pháp và sự xâm nhập của hai nữ nghĩa sĩ tên Điều và Đỏ. Ngài Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa binh dùng thang và leo lên cây đa, mọc sát bờ tường ồ ạt tấn công vào đồn Sơn Đá (Soldats) tại Rạch Giá, vào lúc 4 giờ sáng. Sau 2 giờ ác chiến, nghĩa binh hoàn toàn làm chủ tình hình và chiếm được đồn. Giết chết 5 sĩ quan Pháp trong đó có tên quan chủ tỉnh Chánh Phèn, 67 hạ sĩ quan và binh sĩ, thâu 100 súng đủ loại. Chỉ có một tên cai chạy thoát, nhưng quần của y ướt đẫm, đầy nước tiểu, tên là Duplessis.
  Hai hôm sau thiếu tướng hải quân Pháp là Ohier ở Mỹ Tho mới hay tin. Ohier ra lịnh cho trung tá Léonard Ansart ở Vĩnh Long đem viện binh để chiếm lại đồn. Nghĩa binh chống trả rất mãnh liệt, nhưng vì viện binh của Pháp quá đông, vũ khí tối tân. Nên sau 6 ngày chiếm giữ đồn, đến 3 giờ chiều ngày 21-6-1868 nghĩa binh phải rút lui về Hòn Chông, rồi núi Trầu ở Hà Tiên, quân Pháp theo truy nã dữ dội do tên Việt gian Huỳnh Công Tấn dẫn đường. Căn cứ núi Trầu bị thất thủ. Ngài cho nghĩa binh vượt biển ra đảo Phú Quốc, nghĩa binh đổ bộ vào cửa An Thới, đống quân tại rừng Hàm Ninh, giao chiến với Pháp và bọn Huỳnh Công Tấn nhiều trận tại đây, bất phân thắng bại. Theo đường mòn đưa quân qua Dương Đông, lợi dụng địa thế hiểm trở, lập căn cứ chiến đấu ở Cửa Cạn và dọc theo bãi biển Ông Lang. Quân Pháp và bọn Huỳnh Công Tấn tấn công nhiều lần nhưng vẫn thất bại. Ngài bị thương ở lưng. Pháp lại siết chặt vòng vây, quyết tâm bắt Ngài cho kỳ được. Do sự bài mưu của các tên Việt gian bán nước như: Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn, bắt thân mẫu của Ngài và dân lành vô tội ở trong vùng, kỳ hạn cho Ngài phải ra nạp mình. Nếu không, họ sẽ dùng cực hình với mẹ của Ngài và tất cả dân lành bị bắt.
  Trước tình thế tiến thối lưỡng nan, lương thực cạn kiệt, quân Pháp càng lúc càng siết chặt vòng vây, không thể thoát thân ra được bên ngoài. Một lòng vì chữ hiếu, một dạ vì thương dân. Ngài cho triệu tập tướng sĩ, khuyên giải giáp về quê làm ăn, ẩn nhẫn chờ thời, đợi cơ hội khác. Còn Ngài thì ra nộp mình cho giặc Pháp tại bãi biển Ông Lang.
  Pháp bắt được Ngài thì mừng lắm. Đưa Ngài về Rạch Giá đồng thời khẩn báo về phủ Thống Đốc Nam Kỳ ở Sài Gòn biết. Pháp dùng vàng bạc cho đến quan tước để chiêu dụ Ngài hàn. Nhưng Ngài nhất quyết trả lời là không. Ngày 27 tháng 10 năm 1868, Pháp đưa Ngài ra pháp trường tại thị xã Rạch Giá. Ngài có làm bài thơ tuyệt mệnh như sau.
 
        Thư kiếm tòng nhung tự thiếu niên,
        Yên gian đảm khí hữu long tuyền
        Anh hùng nhược ngộ vô dung địa,
        Báo hận thâm cừu bất đới thiên.

 
 Thi sĩ Lam Giang dịch:
  
        Tuổi thơ theo việc nhung trường,
        Thanh gươm quyết tử bốn phươnh vẫy vùng.
        Rủi như gặp bước cơ cùng,
        Thì ta với giặc không chung đội trời!
 
  Khi chiếc gươm oan nghiệt của kẻ bạo thù người Pháp phát xuống, đầu Ngài rơi ra, Ngài vùng mạnh đứt dây, nhảy tới hai tay nâng lấy đầu, gắn lại vào cổ, rồi Ngài ngã xuống hóa thân ra để thành Thần. Năm ấy, tuổi đời của Ngài vừa mới 30. Khiến cho mọi người chứng kiến phải ngậm ngùi, rơi lệ, tiếc thương cho một đấng anh hùng, hào kiệt vị quốc vong thân. Phải cất tiếng than thảm thiết.
 
         Thành Kiên Giang trời sầu, đất thảm,
         Thương đấng anh hùng vị quốc vong thân.
 
  Hành động cuối cùng của Ngài nói lên ý chí kiên cường, bất khuất đối với giặt ngoại xâm Pháp: " Các ngươi có chém ta, nhưng đầu ta không bao giờ lìa xa khỏi cổ, Nguyễn Trung Trực nầy sẽ sống mãi đến thiên thu." Quả thật vậy, anh hùng Nguyễn Trung Trực vẫn sống mãi trong lòng của mọi người dân Việt và trong dòng lịch sử của dân tộc, con cháu Lạc Hồng bất diệt cho đến tận ngàn sau.
  Hiện nay, ngoài đền thờ Ngài tại thị xã Rạch Giá thuộc xã Vĩnh Thanh Vân, Ngài còn được sắc phong Thần Hoàng xã Tà Niên, quận Châu Thành Rạch Giá, Thần Hoàng xã Mỹ Lâm, quận Hòn Đất, Thần Hoàng xã Gành Dầu, Phú Quốc. Tại Gành gió, Ngài được thờ chung cùng đền với Bà Chúa Xứ đảo Phú Quốc, có tên là Kim Giao Thần Nữ.
  Hiện nay, di tích thuyền bè của nghĩa binh bị dùi sâu dưới lớp bùng lầy ở Cửa Cạn và dọc theo bãi biển Ông Lang.
  Tại Phước Lộc thôn (6), người dân thành kính lập miếu thờ phu nhân của Ngài tên là Lê Kim Đính, được gọi là miếu Bà Lớn Tướng.
  Tục truyền rằng: Bà vừa hạ sanh một cậu bé trai, thì quân pháp bao vây và ồ ạt tấn công một cách mãnh liệt, bà mới sanh nên không chịu nỗi sự lạnh lẽo đói khát, nên ngã bịnh mà mất. Ngài Nguyễn Trung Trực bế con mà không có sữa cho con bú. Ngài đành dùng khăn đỏ quấn con lại rồi đặt vào bộng cây với nải chuối cau nhỏ làm bằng vàng, để may ra ai kia lượm được đem về nuôi dưỡng. Rồi Ngài trở ra mặt trận cùng nghĩa binh tử chiến với giặc thù.
  Khối tín đồ PGHH tôn vinh Ngài là Quan Thượng Đẳng Đại Thần, Lập đền thờ Ngài ở quận chợ mới, tỉnh An Giang. Sở dĩ Ngài được tôn vinh như vậy là vì Ngài có đủ các đưc tính: Hiếu, Nghĩa, Trung, Trí, Dũng và Nhân. Chính các đức tính đó và tinh thần Vô Úy, không vị kỷ, mà chí không sờn, lòng không sợ, gian nan không nản, khổ cực không màng, giàu sang không mến, phú quí chẳng ham, danh lợi không cần, nghèo hèn không đổi, hy sinh cả mạng sống để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, quốc gia dân tộc.
 
    Tử vì nước còn ghi linh miếu,
    Thác vì đời thanh sử danh bia.
(DPQM-106)   
        
  Trong một lực lượng võ trang Dân xã Hòa Hảo, được thành lập cách đây trên nữa thế kỷ, trong thời kỳ kháng Pháp với một quân số vài chục ngàn người, được trang bị vũ khí tương đối tối tân của thời bây giờ, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Nguyễn Giác Ngộ, được danh dự mang tên Ngài là: Bộ đội Nguyễn Trung Trực.
  Để tưởng niệm húy nhật năm thứ 138, Ngài thọ tử và đã hoá thân thành Thần tại thị xã Rạch Giá. Tôi xin mượn 4 câu thơ sau đây của nhà thơ Hoài Anh để tri ơn và kết thúc bài nầy.
  
      Nguyễn Trung Trực, dân gọi tên,
      Con người nghĩa khí vang rền bốn phương.
      Nguyễn Trung Trực, tạ ơn người,
      Thanh gươm sáng giữa cõi đời soi chung.

 
 
                                 Người viết: Nguyễn Hoài Ân. 
                                  
 
 
 
Ghi Chú:
(1)(2)(3):Việt Sử Toàn Thư trang 633,634,644 của Sử Gia Phạm Văn Sơn.
          Theo Việt Sử Toàn Thư Parfait là Trung Tướng.
(4). Tà Niên ngày sưa là một sân chim, cách thị xã Rạch Giá vào khoảng
     10 km, về hướng Tây Nam. Sân chim thường là một vùng đất cao,  
     cây cối rậm rạp, chim kéo nhau về làm tổ, đậu, ngủ, nghỉ quanh
     năm, suốt tháng. Rất hôi thúi, dơ bẩn. đầy rắn, rết.
(5). Trong bài văn tế Sĩ Dân Lục Tỉnh ?
(6). Cửa Cạn còn có tên là Phước Lộc Thôn.
*    Xin tra cứu theo quyển Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, xuất bản năm 
     1993, bìa vàng, 
     Thí dụ: (VLPA-250), tức bài Viếng Làng Phú An, trang 250.
*    Dưới nền đất thành phố Sài Gòn hôm nay (Khu chợ Bến Thành, tòa Đô
     Chánh, Quốc Hội) xưa kia là thành Gia Định. Sài Gòn xưa kia là
     tỉnh lỵ của tỉnh Gia Định, được ghi vào sử sách vào năm 1698. Thời
     vua Lê Hi Tông (1676-1705), trong Nam thời chúa Nguyễn Phúc Chu
     (1691-1725).
*    Sau khi chiếm thành Gia Định vào tháng 2 năm 1859. Đầu năm 1860
     mặt trận Trung Hoa bùng nổ, Pháp bỏ Tourane, chỉ để lại 700 quân
     và vài trăm lính Tây Ban Nha đóng ở Sai Gòn, Chợ Lớn và các đồn
     Cây Mai, Tân kiểng, Ô Ma và chùa Barbet, bị 12.000 quân ta bao vây
     gần 1 năm từ tháng 3 năm 1860 đến tháng 2 năm 1861, do Khâm Lược
     Sứ Nguyễn Tri Phương chỉ huy, nhưng không phá đươc.
 
 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn