PHẦN CẢNH TỈNH
Con người một khi mất cả tin tưởng, tin tưởng có Trời Phật, tin tưởng có quả báo luân hồi, tẩm phải ba cái độc: tham, sân, si thì khó mà thức tỉnh họ bằng những lý lẽ cao siêu, khó hiểu. Tâm trạng của họ ví như kẻ đang chạy mau, dầu có khuyên bảo điều chi, họ cũng không nghe kịp. Vậy muốn cho họ nghe, phải bảo họ dừng lại, cũng như muố khuyên người làm lành, trước phải ngăn đừng cho họ làm ác nữa, như lời Phật đã dạy răn. Nhưng làm cách nào cho những người mất đức tin, đang giong ruổi trên con đường tội lỗi kia đứng lại?
Ông Sư Vãi Bán khoai đã khéo chặn đứng họ lại bằng cách báo động cho họ biết rằng phía trứơc có cái vực sâu, nếu họ cứ tiếp tục chạy tới mãi thì chẳng khỏi rơi xuống vực. Cái vực sâu mà ông Sư Vãi Bán khoai muốn nói đây là ngày "Phật Trời hội nghị lập đời Thượng nguơn", vì lẽ "Tam nguơn nay đã hết rồi". Và trong những ngày hội công đồng phán xét ấy :
Phật Trời Thần Thánh đâu dùng.
Mấy đứa hung ác còn dung nỗi gì !
Người nào niệm Phật từ bi.
Thần lành theo giữ sợ gì mang tai.
Lung lăng hung ác ỷ tài.
Thời cơ thần dữ theo hoài hai bên.
Khuyên trong thiên hạ gần xa.
Phải suy phải xét trẻ già chớ ươn.
Tôi đã biết hết tỏ tường.
Tội phước hai lẽ không phương nào lầm.
Tu hành thì đặng thiện tâm.
Ác nhơn lại mắc cõi âm luân hồi.
Rồi nhân đó, ông cắt nghĩa lý luân hồi quả báo:
Luân hồi xem thấy mà ghê.
Làm trâu làm chó nhiều bề thiết tha.
Làm tôi làm mọi vậy mà.
Sanh ra heo ngựa, tội ta đền bồi.
Và khi người đời thức tỉnh, nhận rõ con đường tội phước, ông Sư Vãi Bán khoai mới khuyên tu :
Tôi khuyên hết thảy chợ quê.
Ráng mà tu niệm chớ hề nghinh ngang.
Rồi ông biện giải về ích lợi của sự tu hành, của người làm lành lánh dữ:
Nói cho già trẻ đặng làng.
Ráng mà tu niệm Ngọc Hoàng thứ dung.
Bớt bớt việc dữ việc hung.
Lo làm nhơn đức, việc hung đừng làm.
Thời là mới đặng thanh nhàn.
Có thuyền Bát nhã xuê sang rước về.
Ông quả quyết rằng kẻ tu hành thì chắc chắn được thanh nhàn, đắc đạo, vì theo ông:
Thú vật tu hỡi còn thành.
Người sao chẳng biết làm lành tu thân.
Mấy người ác đức bất nhân.
Không coi theo thú trau thân tu hành.
Thú vật cái ác còn thành.
Người cứ làm lành vốn thiệt Như Lai.
Sự tu đã quý báu và chắc chắn như thế, nhưng mà tu bằng phương pháp nào?
PHẦN CHỈ PHÁP TU
Giáo lý hay pháp môn hành đạo của ông Sư Vãi Bán khoai có thể tóm lược trong hai câu sau đây:
Niệm Phật phải giữ Tứ Ân
Ơn nhà ơn nước xử phân trọn nghì.
Nghĩa là gồm có hai giáo pháp: Tu Nhân (Tứ Ân) và Học Phật (Niệm Phật).
Về Tứ Ân: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo, và Ân đồng bào nhân loại, ông Sư Vãi Bán khoai cũng như Đức Bổn Sư, đặc biệt biểu dương tinh thần Hiếu hạnh đối với Tổ tiên cha mẹ, và Nghĩa khí đối với quê hương đất nước, như ông thường nhắc nhở :
Minh tâm là sách Hớn đàng
Hiếu chỉ rõ ràng sao chẳng học coi.
Luật Nam nghĩa lý hẳn hòi.
Ơn cha nghĩa mẹ sự vua trung thần.
Thiệt là luân lý Tứ Ân.
Sao không lấy đó xử phân lấy mình!
Về ân Tổ tiên, ông không dứt lặp đi lặp lại:
Cửu huyền thất tổ đừng quên.
Vừa hương bát nước chẳng nên sai lầm.
Hoặc là:
Tu là kính trọng mẹ cha.
Cầu Trời cầu Phật Di Đà cứu an.
Còn về ân đất nước , ông chỉ cho thấy gương những vị anh hùng vị quốc vong thân đã được người đời ghi công dựng miễu:
Không coi mấy vị Thánh Thần.
Trung quân ái quốc nhân dân miễu thờ.
Đến như giáo pháp Học Phật, ông Sư Vãi Bán khoai không chủ trương cà Thiền Tịnh song tu như Đức Phật Thầy Tây An hay Đức Bổn Sư, mà chi xiển dương và phát huy pháp môn Tịnh độ, nhứt tâm niệm danh hiệu Phật A đ đà cầu vãng sanh về Cực lạc. Ông cực lực tàn thân pháp môn niệm Phật, vì theo ông niệm Phật sẽ được nhiều lợi ích như sau :
1. Cải sửa tánh tình :
Niệm Phật phải sửa tánh tình.
Ở ăn ngay thẳng chớ tình phang ngang
2. Diệt trừ tham, sân, si :
Niệm Phật bỏ tánh câu mâu
Thì sau mới đặng một câu thanh nhàn.
3.Giải phiền não:
Niệm Phật vui thú thảnh thơi
Buồn sầu giải hết, mặc người cười chê.
4. Tăng lòng thương người , mến vật :
Niệm Phật hầm hút cháo rau
Thương người tàn tật sang giàu đừng ham.
5. Tiêu trừ tật bịnh :
Niệm Phật tật bịnh tiêu tan.
Như sương tan tát như hồ nước trong.
6. Được thần linh bảo hộ :
Niệm Phật có bốn thần linh.
Thường thường bảo hộ bên mình mộ khan.
7. Được phát vãng lai cưu nan:
Niệm Phật có Phật vãng lai.
Lâm cơn nạn tám Phật sai cứu mình
8. Cứu được Cửu huyền thất tổ:
Niệm Phật thọ mạng tang long.
Cửu huyền thất tỏ đặng về Tây phương.
9. Được hiển vinh
Ráng mà niệm Phật cứu mình.
Đến chừng lậo hội Long đình hiển vinh.
10. Được vãng sanh về Cực lạc
Niệm Phật sen nở đợi chờ.
Cây nào bóng nấy bốn mùa tốt tươi.
Hay là :
Niệm Phật Cực lạc hân hoan.
Ta bà khổ não giàu sang mấy hồi.
Pháp môn niệm Phật đã thù thắng như thế, cho nên ông Sư Vãi Bán khoai khuyên phải gắng công trì niệm, chí thành chí thiết thì chắc chắn được kết quả, chẳng khác người trồng cây thì thế nào cũng đâm chồi nảy tược:
Niệm Phật như thể trồng cây.
Vun phân tưới nước thì cây đâm chồi.
Ai mà niệm Phật thả trôi,.
Cũng như cây bên mà người nhổ lên
Lập vườn muốn lập cho nên,
Đặng nhiều cây nhánh vững bền dài lâu.
Ở đời ít kẻ lo âu.
Niệm Phật ít tiếng, câu mâu nhiều lời.
Sở dĩ ông Sư Vãi Bán khoai về Học Phật và khuyên người chí quyết niệm Phật là vì pháp môn này chẳng những dễ tu mà còn kết qủa lại chắc chắn. Phương chi, người đời lúc bấy giờ tâm trí còn hoang mang, căn cơ còn thiểu bạc, nếu nhứt thiết đem giáo lý cao siêu của Thiền tông chỉ dạy thì không khỏi làm cho họ chán nản.
Vả lại, ông Sư Vãi Bán khoai ra đời trong một thời gian quá ngắn, rầy đây mai đó, không kịp lập quy mô một nền đạo thì thiết tường sự giáo hóa của ông được bấy nhiêu kể cũng nhiều lắm rồi. Với cái hoàn cảnh xã hội như thế, ông không thể làm hơn nữa được, vì ông chỉ có sứ mạng chuẩn bị, đến như công trình chấn hưng giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương phát huy pháp môn Tu Nhân Học Phật trên những quy mô rộng lớn và xiển minh giáo lý siêu mầu của Đức Phật, còn phải chở công hoằng hóa của Đức Huỳnh giáo chủ.