- Lời Nói Đầu
- Giới Thiệu
- Mẩu chuyện số 1 - SỰ LÂM PHÀM CỦA ĐỨC THẦY
- Mẩu chuyện số 2 - TRỊ BỊNH CHO ĐỨC THẦY
- Mẩu chuyện số 3 - NÚI TRÀ SƯ
- Mẩu chuyện số 4 - ĐĂNG SƠN LẦN THỨ NHỨT
- Mẩu chuyện số 5 - ĐỨC THẦY TẮM SÔNG
- Mẩu chuyện số 6 - ĐỨC THẦY ĐỘ ÔNG KÝ VÕ VĂN GIỎI
- Mẩu chuyện số 7 - ĐỨC THẦY ĐỘ CHO NGƯỜI TRUNG HOA
- Mẩu chuyện số 8 - CẢI TỬ HUỜN SANH
- Mẩu chuyện số 9 - DẠY ĐẠO CỨU ĐỜI
- Mẩu chuyện số 10 - LỜI DẶN DÒ CỦA ĐỨC THẦY
- Mẩu chuyện số 11 - CON THEO THẦY
- Mẩu chuyện số 12 - ĐỨC THẦY UỐNG NƯỚC ACID
- Mẩu chuyện số 13 - CẤM THỌ THỰC BA NHÀ
- Mẩu chuyện số 14 - CHẾT ĂN KHÔNG ĐƯỢC
- Mẩu chuyện số 15 - CHUYỂN ĐIỂN LÀNH
- Mẩu chuyện số 16 - TRUYỀN PHÉP LINH
- Mẩu chuyện số 17 - TU TIẾN CHỚ TU LÙI
- Mẩu chuyện số 18 - BÀI TÀ HIỂN CHÁNH
- Mẩu chuyện số 19 - TRÁI BÍ ĐAO
- Mẩu chuyện số 20 - THỂ HIỆN TỪ BI
- Mẩu chuyện số 21 - RỦA CON
- Mẩu chuyện số 22 - ĐI TÌM PHẬT
- Mẩu chuyện số 23 - CÓ NÊN SÁT SANH TRONG NGÀY CHAY KHÔNG
- Mẩu chuyện số 24 - PHƯƠNG PHÁP NHẪN NHỤC
- Mẩu chuyện số 25 - NGÀY THẦY TRỞ LẠI
- Mẩu chuyện số 26 - LỘ VẺ TỪ BI
- Mẩu chuyện số 27 - PHẬT, LÃO, NHO
- Mẩu chuyện số 28 - CÙNG MỘT SỰ ĂN
- Mẩu chuyện số 29 - LÒNG QUẢNG ĐẠI
- Mẩu chuyện số 30 - THẦY CHỨNG SỰ QUY Y
- Mẩu chuyện số 31 - TU QUANH VÀ TU TẮT
- Mẩu chuyện số 32 - ĐẬU RỚT
- Mẩu chuyện số 33 - TÙY CƠ HÓA ĐỘ
- Mẩu chuyện số 34 - THEO THẦY HAY THEO GIÁO LÝ
- Mẩu chuyện số 35 - ÔNG THẦY THUỐC ĐI TRỊ BỊNH CHO ÔNG TỔ THẦY THUỐC
- Mẩu chuyện số 36 - ĐỨC CẢ BAO DUNG
- Mẩu chuyện số 37 - KHÔNG NÊN CHỦ QUAN
- Mẩu chuyện số 38 - QUY Y THÌ PHẢI LÀM Y
- Mẩu chuyện số 39 - TÔI LÀM HUẤN LUYỆN VIÊN
- Mẩu chuyện số 40 - KHẨU NGHIỆP
- Mẩu chuyện số 41 - CHÂN VÀ GIẢ
- Mẩu chuyện số 42 - ĐOÀN KẾT ĐỂ CHUNG LO
- Mẩu chuyện số 43 - MỘT BÀI NGỤ NGÔN
- Mẩu chuyện số 44 - THEO BẦY MỚI SỐNG
- Mẩu chuyện số 45 - HẠNH KHIÊM TỐN CỦA ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
- Mẩu chuyện số 46 - CHỈ CÓ MỘT NẤC
- Mẩu chuyện số 47 - LÒNG THÀNH CẢM ỨNG
- Mẩu chuyện số 48 - ĐỨC HÁO SANH
- Mẩu chuyện số 49 - “THÀNH LÒNG NƯỚC LÃ NÊN HỒ”
- Mẩu chuyện số 50 - MUỐN TÌM PHẬT
- Mẩu chuyện số 51 - TÀ HAY CHÁNH
- Mẩu chuyện số 52 - LỜI KHÉO KHỎI TAI NẠN
- Mẩu chuyện số 53 - TÙY BỊNH CHO THUỐC
- Mẩu chuyện số 54 - CÁI DŨNG CỦA THÁNH NHÂN
- Mẩu chuyện số 55 - ĐẠO KHÔNG THỂ MẤT
- Mẩu chuyện số 56 - Y KINH DIỄN NGHĨA
- Mẩu chuyện số 57 - PHÉP THẦN THÔNG
- Mẩu chuyện số 58 - CHẾT KHÔNG MẤT
- Mẩu chuyện số 59 - GÌN GIỚI LUẬT
- Mẩu chuyện số 60 - MUỐN DIỆT MÊ SI
- Mẩu chuyện số 61 - Y THEO TÔN CHỈ
- Mẩu chuyện số 62 - TU CÁCH NÀO MỚI CHÁNH
- Mẩu chuyện số 63 - HIỂU LẦM PHẬT DẪN ĐỘ
- Mẩu chuyện số 64 - CÂU CHUYỆN THIÊN CƠ.
- Mẩu chuyện số 65 - ĐỨC LÀ ĐẠO CẢ.
- Mẩu chuyện số 66 - BÀI TOÁN ĐỐ
- Mẩu chuyện số 67 - MỘT BUỔI KHUYẾN NÔNG
- Mẩu chuyện số 68 - ÔNG HOÀNG THIÊN BẢO
- Mẩu chuyện số 69 - TOKYO NHẬT BẢN
- Mẩu chuyện số 70 - ĐỆ TAM THẾ CHIẾN
- Mẩu chuyện số 71 - LÀM Y THEO GIÁO LÝ
- Mẩu chuyện số 72 - TÔI SẮM CÂY DÙ
- Mẩu chuyện số 73 - MUỐN CÓ HUỆ THÌ PHẢI BẮT SÂU
- Mẩu chuyện số 74 - TỪ BI
- Mẩu chuyện số 75 - ÔNG THẦN KHÔNG TU ÔNG THẦN CŨNG CHẾT
- Mẩu chuyện số 76 - HẾT ĐỜI HẠ NGUƠN
- Mẩu chuyện số 77 - QUA NĂM DÊ
- Mẩu chuyện số 78 - KHÔNG DÈ
- Mẩu chuyện số 79 - ĐỨC THẦY ĐỘ THẦY KIỆN DẬU (* 6)
- Mẩu chuyện số 80 - KHÔNG BIẾT THÌ KHÔNG DÙNG
- Mẩu chuyện số 81 - PHẬT CHỈ DỤNG LÒNG
- Mẩu chuyện số 82 - KHÔNG HỌC MÀ THÔNG
- Mẩu chuyện số 83 - CHÍ THANH CAO
- Mẩu chuyện số 84 - DÕI GÓT THEO THẦY
- Mẩu chuyện số 85 - CỬ ĂN HAI CON
- Mẩu chuyện số 86 - TU CÁCH NÀO
Đ
ức Thầy có nói:Diệt mê si phải nương thuyền giác,
Muôn việc làm chính trực khôn ngoan.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Trời càng về Đông tiết càng thêm lạnh, nhưng lòng người chẳng thấy lạnh, phải chăng vì nôn nóng việc đạo đức. Bởi Phật Pháp rộng sâu như rừng như bể mà người học Đạo khi bước vào ngưỡng cửa thì còn biết bao cái chưa hiểu, bao nhiêu cái nghi ngờ thắc mắc cần phải tìm tòi nghe học.
Do đó, lúc Đức Thầy mới khai Đạo tại Tổ Đình Hòa Hảo, hằng ngày người ta thường tới lui tấp nập, hoặc nhờ khi trị bịnh, xin thuốc, thỉnh giấy vàng, hoặc để nghe Ngài thuyết giảng đạo lý hay chép kinh giảng về nhà tu học. Cũng đồng một tâm trạng nói trên, ông Đặng Thành Tựu người ở xã Kiến An, Chợ Mới An giang, khi đã quy y với Đức Thầy, ông để tâm suy tầm đạo lý, thấy có nhiều điều tự mình không thể giải nghi, nên hôm nọ vào cuối mùa Đông năm Kỷ Mão 1939, ông Tựu có đến Tổ Đình, đợi lúc vắng khách, ông mới bước gần lại Đức Thầy thưa hỏi:
-Bạch Đức Thầy, trong kinh Phật có dạy Tam Độc: Tham, sân, si. Theo trí cạn hẹp của tôi hiểu là muốn trừ tánh tham thì tôi đừng ham muốn vật nào hết là được, cũng như muốn trừ sân thì tôi đừng nóng giận chút nào nữa dù việc nghịch lý ấy lớn hay nhỏ. Còn cái mê si nầy tôi không biết làm sao diệt được nó, nhờ Đức Thầy từ bi chỉ dạy cho.
Đức Thầy tươi cười bảo:
-Muốn diệt mê si tâm mình phải giác.
Nghe vậy ông Tựu muốn hỏi thêm, nhưng lúc nầy có các bịnh nhân đau nặng, người nhà vừa chở đến, Đức Thầy liền sang qua chữa bịnh cho họ, nên ông không hỏi được.
Câu chuyện nầy thuật theo lời của ông Đặng Thành Tựu.
PHẦN NHẬN XÉT:
“Muốn diệt mê si tâm mình phải giác”
Câu Đức Thầy giải đáp cho ông Đặng Thành Tựu, xét ra nó bao hàm một ý nghĩa vừa sâu, vừa rộng. Bởi mê si là chúng sanh là nguồn gốc sanh tử, còn giác là Phật quả, mục đích giải thoát. Song con đường từ chúng sanh đi đến Phật quả chẳng phải dễ dàng được, vì cái tâm mê mờ tức là vô minh, không nhận rõ chơn lý đã sẵn có của mỗi người từ vô thỉ.Ác thứ mười đoạn chót mê si,
Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
Màn vô minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
Lo huyễn thân vật chất kém hơn,
Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức.
(Quyển 5 Khuyến Thiện)
Từ đó chúng sanh cứ dệt thêm nhiều lớp mê, tạo thêm nhiều nghiệp tội, rồi sanh tử, tử sanh mãi trong sáu cõi phàm chưa bao giờ dừng lại. Giờ đây muốn chận đứng sự luân hồi thống khổ ấy nhà tu cần diệt ngay cái gốc mê si, mà muốn trừ được nó hãy bỏ mê về giác. Tức là phải có lòng tự giác, cho nên Đức Thầy mới dạy ông Tựu: “Muốn diệt mê si tâm mình phải giác”. Vậy làm sao cho ta có lòng tự giác đây? Y cứ vào Kinh Giảng của Đức Phật và Đức Thầy, có thể phân làm hai phương cách để thay đổi lòng mê si trở thành tâm giác ngộ.
Thứ nhứt là với bậc hạ căn thiểu trí, trước nhứt hành giả phải qui thuận theo tinh thần đạo đức và phải nương thuyền giác, tức là phải nương về Giáo lý, Kệ Kinh, Sấm giảng của Đức Thầy, bởi Giáo lý là ánh sáng của ngọn đèn chơn lý, ví như ngón tay để chỉ mặt trăng, như chiếc thuyền để đưa người đến bên kia bờ giác.
Nhờ có tu học giáo lý và kiên trì giới luật, thân tâm hành giả lần lần thanh tịnh, huệ nhựt hiện bày, thấy biết mọi việc, mọi cảnh một cách sáng tỏ đúng với chơn lý. Ấy là tự giác, từ đó sẽ tiến lần đến chỗ hoàn toàn giác ngộ, là Phật quả.
Thứ hai với bậc thượng căn, thượng trí, tức là hạng tiến hóa đã tu học giáo lý từ nhiều kiếp trước, hành giả tự mình tỉnh ngộ xét biết những hành động ngôn ngữ tư tưởng tà quấy sai lầm, mê mờ ô nhiễm mà diệt trừ tức khắc gọi là Giác Sác và khi trừ sạch các điều ấy gọi là Giác Liễu. Được trọn vẹn hai phần đó gọi là Tự Giác, song có tự giác không chưa đủ. Vì đây mới được vào hàng Thinh Văn mà thôi, nên cần tiến đến Giác Tha, nghĩa là phải làm cho nhiều người khác được Tỉnh Ngộ, thấy biết không lầm như mình để bước lên hàng Duyên Giác Bồ Tát rồi cứ thế mà thi hành mãi cho đến khi Giác Hạnh Viên Mãn, tức là hạnh nguyện tròn đầy. Tới đây hành giả đạt đến mục đích tối thượng nhứt thừa cũng gọi là Phật quả hay Như lai. Đại khái chỉ có tám chữ: “Muốn diệt mê si tâm mình phải giác”. Thật nó diệu mầu vô hạng dầu có bao nhiêu văn từ lý lẽ cũng không sao luận bàn cho hết được.