Bài thứ nhất
Ông THANH TÂN vấn Gia đình
Gia đình kỷ cá hội long đàn,
Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang.
Phi vụ tiết phong tầm chánh lý,
Nho Tông vị bác hiệp tôn nhan.
Lược dịch:
Xin hỏi gia đình được mấy người
Lâm phàm truyền bá đạo vào đời
Thành viên gồm những ai đâu nhỉ !
Phúc đức Tổ tiên tạo thế thời.
Bài thứ nhì
ĐỨC THẦY Đáp họa :
Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn,
Hai chữ từ bi thẩm nghiệp an.
Bài trí năng soi chơn giáo lý,
Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan.
Lược dịch:
Chỉ có mình Ta chẳng mấy người
Lâm phàm khai đạo bởi thương đời
Hữu cầu tắc ứng nghi thì giải
Phật hiện độ dân đúng thế thời.
Bài thứ ba
HIẾU NGHĨA VI TIÊN
Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
Hành thiên tri kinh thị sĩ hiền.
Kiếm huệ phi tiêu đoàn nghiệp chướng,
Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.
Lược dịch:
Người sống trên đời hiếu đứng đầu
Điều lành kinh dạy bậc hiền Nhu
Huệ khai như kiếm trừ tan nghiệp
Phật tánh huờn nguyên rất nhiệm mầu.
Bài thứ tư
BÀI CẦU CƠ (1)
Nguyễn đắc thanh danh tam hữu phân,
Đa công hoài luyện thập niên phần.
Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá,
Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân.
Lược dịch:
Ba lần họ Nguyễn đã phân bày
Nói rõ tộc danh kẻ trí tài
Thương chúng ra đời truyền đạo cả
Phước thừa dõi thấu đến vân đài.
Bài thứ năm
ĐỨC THẦY Đáp họa :
Nãi chí thi âm tất hữu phân,
Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần.
Vạn ninh hà hải vi vương bá,
Viễn vọng thanh tân tảo phi vân.
Lược dịch:
Thi văn chắc hẳn đã phân bày
Cặn kẽ là đây bậc trí tài
Vua chúa thì lo dân với nước
Đừng nên viễn vọng chuyện vân đài.
Bài thứ sáu
LỤY TAM CHÂU
Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,
Thập bát chư bang động can qua.
Dương gian mãnh thú trừ tàn ác,
Lê thứ hậu lai khổ thiết tha.
Tần bang hậu hận tiêu diêu động,
Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,
Dư đảng dọc ngang cấp Ma Ha.
Hòa Hảo, tháng 8 năm Kỷ Mão (1939)
Lược dịch:
Lệ đổ ở ba Châu (1)
Bờ phải ba Châu lệ nhỏ tràn
Lân bang mười tám nước đua sang
Binh hùng chư quốc gây chinh chiến
Dân sự lắm người phải khổ lan
Tần Quốc sau nầy khôn giữ nước
Việt Nam chung cuộc có Minh Hoàng
Máu tuôn khắp chốn nơi thành thị
Nhiều đảng dọc ngang kiếm Phật đàng.
--------------------------------
(1) Ba địa danh, năm Kỷ Mão (1939): Châu Đốc, Châu Phú, trong Quận Châu Phú có xã Châu Phú.
Bài thứ bảy
VÉN MÀN BÍ MẬT
Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên,
Sa vi đông hải tri thiều nhạc,
Đởm lực hà quê trung trực thử,
Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên.
Sơn ly Phật cảnh hồi
Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên.
Lược dịch:
Kêu gọi đồng môn kiếm đạo mầu
Danh hiền bình ổn khắp năm Châu
Biển Đông trổi nhạc mừng Nghiêu Thuấn
Bảy núi đền vàng lộ báu châu
Mộc mạc quê mùa tâm chánh trực
Kiên cường báo quốc dạ in sâu
Lìa non xuống hẳn miền Nam Việt
Sứ mạng danh Thầy rạng Á Âu.
Bài thứ Tám
VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)
Bửu ngọc trường quang ẩn tích kỳ,
Sơn đài lộ vẻ liễu huyền vi.
Kỳ thâm tá giả thi thành thủy,
Hương vị âm thầm mộc túy vi.
Năm năm lục ngoạt cơ hàn thử,
Non lịch đài mây rạng tu mi.
Bảy niên hòa địa nhơn hiền thủ,
Núi ngự Hoàng san tự đỉnh chi.
Lược dịch:
Ẩn tích mai danh để đợi thời
Đền vàng bảy núi lộ nay mơi
Lời lành kỳ diệu lan như nước
Nguồn đạo ngát hương tỏa khắp nơi
Năm tháng hãy còn nhiều đói lạnh
Đến thời sẽ được rạng danh Thầy
Bảy năm bình ổn tìm hiền sĩ
Long Hội chừng ni Chúa Thánh khai.
Bài thứ chín
VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)
Hòa bình thế giới kiến tiên bang,
Ngô giả tùng nhung khí đởm gian.
Hồ Thiên tiểu ẩn quân tu ký,
Lương thứ dương trần đạo dĩ an.
Lược dịch:
Hòa bình thế giới gặp Thần Tiên
Đủ sức dẹp yên cảnh chiến tranh
Ta phải Thiên uy chờ lấy lịnh
Đạo mầu rải khắp độ quần sinh.
Bài thứ Mười
VÉN MÀN BÍ MẬT (tt)
Đào nguyên di khả tứ hồ văn,
Khảo đáo tâm trung mãi vạn năng.
Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
Vận thới thô trình trực bỉnh thăng.
Hòa Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ Mão (1939)
Lược dịch:
Lời thơ diễn tả cảnh Thần Tiên
Nuôi chí vượt qua chốn não phiền
Chờ đợi Minh Hoàng ra trợ thế
Chừng ni sẽ rõ việc Khùng Điên.
Bài thứ mười một
BÁT NHẪN
Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên.
Nhẫn dã hương lân hòa ý hỉ,
Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên.
Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn tánh niên niên đắc bảo tuyền.
Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên.
Hòa Hảo, năm Kỷ Mão (1939)
Lược dịch:
Đem hết khả năng để đối nhân
Giới răn trước hết giữ gìn thân
Xóm chòm hòa thuận cùng trên dưới
Chồng vợ thủy chung chẳng rẽ phân
Tâm giữ ngày ngày an lạc đạo
Tánh luôn năm lẫn phúc chuyên cần
Đức lành vạn sự đều an ổn
Thành đạt giàu sang hưởng trọn phần.
Bài thứ mười hai
ĐẠT ĐẠO NGAO DU CHU DI VIỄN CẬN
Đạt đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
Ngao du thế giới hoàn sanh chúng,
Quới tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
Chu di phục thỉ an bá tánh,
Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
Viễn cận chư châu qui nhứt thống,
An cư lạc nghiệp phước vô biên.
Phật Thầy Tây An (1849-1856)
LƯỢC DỊCH:
Đắc Đạo Đi Chu Du Khắp Nơi Để Khuyến Tu.
Đắc đạo thừa khai để phổ truyền
Điều lành các nước hiếu đầu tiên
Chúng sanh thế giới đồng siêu độ
Bần phú trí ngu cũng kẻ hiền
Chung cuộc lo bề an bá tánh
Qui hồi Thượng cổ bởi do Thiên
Xa gần chốn chốn gồm chung mối
Lạc đạo âu ca mãi vững bền.
Bài thứ mười ba
Cho Ông Hương Chủ Bó ở Hòa Hảo
Tâm hành từ thiện vị an nhiên,
Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền.
Huỳnh Long lộ vĩ năng kỳ diệu,
Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên.
Danh sơn khai bút dìu sanh chúng,
Trung Trực phò nguy đãi lịnh Thiên.
Tạo xác phù vân khai nhứt điểm,
Qui hồi tự lập diệt tiền khiên.
Lược dịch:
Rán lo làm lành được bình yên
Dạy dỗ hiền nhơn thấy Phật tiền
Xuống thế cho đời câu diệu lý
Ra đời Ta vốn chửa danh Tiên.
Bài thứ mười bốn
Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)
Kỷ Mão hạ san mượn xác trần,
Cảm tình đồng đạo Lão khuyên dân.
Thậm thâm đây đó niềm liên ái,
Hợp tác cùng nhau nối bút thần.
Lược dịch:
Kỷ Mão lâm phàm mượn sắc thân
Duyên lành sẵn có Ta khuyên dân
Tỏ niềm thân ái câu huyền bí
Chung góp thơ văn giáo độ trần.
Bài thứ mười lăm
Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)
Vi lộ Thiên oai bảo giác dân,
Ngọc
Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định,
Tứ hải hòa giai tất hữu phân.
Lược dịch:
Còn đợi Thiên uy để giáo trần
Lạ thường kẻ sĩ khác phàm nhân
Non sông chờ đón chơn Minh chủ
Bốn biển biết người đã cạn phân.
Bài thứ mười sáu
Cho Ông HƯƠNG CHỦ BÓ ở HÒA HẢO (tt)
Muốn thấy người xưa phải vẹn mày,
Nhìn xem hiệu Lão trong thơ ấy,
Tứ cú Nho gia đã cạn bày.
Hòa Hảo, lối tháng 9, năm Kỷ Mão (1939)
Lược dịch:
Đạo nhân trọn vẹn thấy người xưa
Hữu chí Bồng Lai hưởng phúc thừa
Danh hiệu nhìn trong thơ phú có
Ba vần bốn cú hẳn vừa thưa.
Bài thứ mười bảy
HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH
Bửu Châu công luyện chốn non Thần,
Sơn thủy môn giang bảo giác dân.
Kỳ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
Hương nồng dành thưởng kẻ tròn ân.
Lược dịch:
Dày công tu luyện chốn non Thần
Đất nước chờ người ổn định dân
Hết sức lạ lùng trời định sẵn
Thưởng công xứng đáng kẻ tròn ân.
Bài thứ mười tám
HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH (tt)
Từ bi hai chữ sắc nâu sồng,
Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công.
Vận bĩ xa chờ câu thạnh thới,
Buồn ai châm chích chữ cay nồng.
Hòa Hảo, năm Kỷ Mão (1939)
Lược dịch:
Nối chí từ bi của Phật Đà
Dày công độ chúng khắp gần xa
Vận thời chưa đến ngày thông đạt
Cay đắng chi người nỗi thiết tha.
Bài thứ mười chín
Ông HUỲNH HIỆP HOÀ
(làng Bình Thủy, tỉnh Long Xuyên) xướng:
Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm,
Phạn ngữ truyền lai tối thậm thâm.
Phanh luyện ô kim mong điểm đạo,
Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm.
Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển,
Phật Lão hư không bí khuyết thầm.
Thị nhị giáo sư đoàn thuyết pháp,
Tảo tương thích điển chúng sanh tầm.
Lược dịch:
Cầu xin Giáo Chủ dẫn lời vàng
Phạn ngữ xưa truyền hiểu khó khăn
Mở rộng lòng nhơn xin dạy đạo
Khai thông tâm tánh được tường kham.
Thuấn Nghiêu phước thọ cao vinh hiển
Phật Lão vốn không tối thậm thâm
Sau Phật là Thầy (1) truyền chánh pháp
Tỏ tường chứng tích chúng sanh tầm.
----------------------------------------------
(1) Ý chỉ Đức Huỳnh Giáo Chủ
Bài thứ hai mươi
ĐỨC THẦY Đáp họa :
Mã hồi nhơn diện ngã kim châm,
Pháp giáo Phạn văn bác diệu thâm.
Lam thất thanh chơn hà khuyết đạo,
Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm.
Môn gia khảo sát lai duy hiển,
Vị khí nan thông ký cảm thầm.
Ngã thị vô biên nhiên lập pháp,
Hòa giai Nam đỉnh tác thi tầm.
Hòa Hảo, mồng 1 Tết năm Canh Thìn (1939)
Lược dịch:
Lâm phàm Ta vốn chọn lời vàng
Pháp giáo Phạn văn thật diệu thâm
Cửa Phật vì sao không đạo đức ?
Lòng người khó hiểu bởi tà tâm
Giáo tôn thông đạt danh ư thế
Tánh hiển tâm linh ý cảm thầm
Ta vốn là người truyền Phật Giáo
Làm thơ khai đạo ở phương Nam.
Bài thứ hai mươi mốt
Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:
Chúng sanh tầm đắc đạo nan minh,
Bửu bối trùng tâm thể dụng tinh.
Cầm kiếm đảnh lư an trí thủ,
Càn khôn nhựt nguyệt dị đồng linh.
Siêu phàm ôn dưỡng âm dương số,
Nhập Thánh đề khai thế tục tình.
Thái Thượng Thích Ca luân kiếp giáo,
Đơn song đồ đệ cổ kim minh.
Lược dịch:
Chúng sanh tầm đạo khó tường thông
Ngự trị vọng tâm chúng phục tòng
Như kẻ cầm gươm chờ dưới đất
Càn khôn nhựt nguyệt ở trên không
Nay ông thông đạt âm dương số
Nhập Thánh huờn nguyên tính Phật đồng
Thái Thượng, Thích Ca xin nói rõ
Môn đồ nhứt vị, cổ kim thông ?
Bài thứ hai mươi hai
ĐỨC THẦY đáp họa:
Chúng sanh khổ diệt diện nan minh,
Ly cấu từ bi cái thế tinh.
Nhan Thước duyên do tam diễn thủ,
Can trừ danh vị nã kỳ linh.
Ngộ thâm nan liễu âm dương số,
Xác tục trần gian cố dục tình.
Thổ phỉ nam lương toàn khuyến giáo,
Tâm hồn ngôn xuất biện kim minh.
Lược dịch:
Khổ công tầm đạo chẳng tương thông
Thấy được bóng Ta thật khó lòng
Thầy thuốc phải trong hàng Biển Thước
Nho gia như thể bậc Nhan Tông
Âm dương thấu đạt điều khăn khó
Ham muốn dục tâm cố phục tòng
Khôn dại Ta nay không thiết đến
Tâm tồn ngôn xuất lẽ tường thông.
Bài thứ hai mươi ba
Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:
Hội trung bửu cái cổ kim truyền,
Trí giác hư linh kế lập thiên.
Xiển, Triệt phân minh Châu Võ kỷ,
Âm dương chuyển luyện Hớn thê tiên.
Lôi Âm kinh ký khai đàn việt,
Sơn Thứu từ tăng phản bổn nguyên.
Gia bác na thời di phổ hóa,
Huyền cơ như thử kiếp trần yên.
Lược dịch:
Xưa nay trí thức được lưu truyền
Linh hiển khôn cùng luật hóa Thiên
Xiển, Triệt trong thời Châu Võ kỷ
Lôi Âm khế đạo cũng tùng Thiên
Cho dù Xiển, Triệt hay Linh Thứu
Hoặc mấy Sư tăng ở cửa thiền
Truyền đạo trong thời gian ngắn ngủi
Huyền cơ như vậy để sao yên.
Bài thứ hai mươi bốn
ĐỨC THẦY đáp họa:
Bửu gia nan hối thế gian truyền,
Tam thế hư không tế kiệm thiên.
Nhơn ngã hạ nguơn phân bất ký,
Qui hồi thượng cổ bút thê tiên.
Chất âm thinh sắc phi tiêu diệt,
Bài phỏng liêm gia bế hộ nguyên.
Lập chí hiền nhu đương kế hóa,
Thi thần ký chú định hòa yên.
Lược dịch:
Trong nhà của quí khó đem truyền
Tam thế hoàn không lẽ tự nhiên
Nguơn Hạ khó tường thời cổ đại
Thượng Nguơn sẽ thấy cảnh Thần Tiên
Âm thinh sắc tướng đâu cần diệt
Giới định huệ luôn giữ tính thiền
Nối gót hiền Nho đang lập chí
Nếu hòa có được sẽ bình yên.
Bài thứ hai mươi lăm
Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:
Ngọc quang cảnh nội chủ càn khôn,
Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn.
Âu Á chiến tranh thùy thắng lợi ?
Kim lê uổng tử sắc hà môn.
Lược dịch:
Ông như viên ngọc chủ càn khôn
Gọi chủ vì tôi quí trọng ông
Âu Á đánh nhau ai thắng bại ?
Chết oan dân chúng khổ hay không ?
Bài thứ hai mươi sáu
Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng (tt):
Hà môn Giáp tý giáng lâm trần,
Đào tạo lương tâm khổ não dân.
Xuất hiện mạng chơn phi quyết chiến.
Cấu ai trị địa hội quân thần.
Lược dịch:
Vì đâu Giáp tý lại lâm trần
Để khổ lan tràn khắp thứ dân
Xuất hiện chơn nhơn không đánh giặc
Làm sao ổn định được cùng dân ?
Bài thứ hai mươi bảy
ĐỨC THẦY đáp họa:
Thành tha ngũ nội nã càn khôn,
Cái thế vô linh mạng Thích Tôn.
U lịch bá trừ nô bính lợi,
Tiền đồ Lê dị đắc giang môn.
Lược dịch:
Chí thành đuổi kịp lẽ càn khôn
Linh hiển vô cùng đạo Thích Tôn
Thời thế bây giờ chưa nói được
Lê Triều hiện thực với con sông.
Bài thứ hai mươi tám
ĐỨC THẦY đáp họa: (tt)
Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
Khóc tử lang tâm biến họa dân.
Tà quái hạ ngươn khai ác chiến,
Ất niên bình thự kiến quân thần.
Lược dịch:
Ba ngàn sáu trăm kẻ lâm phàm
Gây cảnh tang thương để họa dân
Lòng dạ trở thành loài thú dữ
Đến năm Ất Dậu tạm thời yên.
Bài thứ hai mươi chín
Ông HUỲNH HIỆP HÒA xướng:
Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương,
Khẩu tụng Văn vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn chương.
Lược dịch:
Một lời chấn động cả miền Nam
Chưa nói nhưng tôi hiểu rõ rang
Việc thiện của Ngài như có một
Điều lành dân thứ khó gìn kham
Trận tiền thương ngựa đều dành sẵn
Cứu chúng ra tay diệt khổ nàn
Thi hỏi hiệu danh xin đáp lại
Một trong ba vị ở thi văn.
Dịch theo lối chiết tự:
Phiến chấm đại bên TRẠNG hữu tình
Dưới Vương trên khẩu hợp nên TRÌNH
Sau tung trước dữ thành nên CỬ
Hai tịch là ĐA chữ lập thành
Thủ thị tay ĐỀ tên bảng hổ
Thủ thâm mất thủy THÁM là danh
Làm thơ xin hỏi tôn danh hiệu
Ba vị văn chương hiển hiện rành.
Bài thứ ba mươi
ĐỨC THẦY đáp họa:
Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp,
Phật lý di khai đại hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.
Hòa Hảo, mồng một tết, năm Canh thìn (1940)
Lược dịch:
Hãy quay tìm đạo ở phương Nam
Tranh luận đạo xa khá rõ ràng
Tề Tướng hai bề an ổn được
Hàn Nhơn một mặt khó gìn kham
Nhơn gian Phật giáo Thiên tôn vị
Thích đạo hoằng khai đại hội trường
Ta đã ba trăm năm có lẽ
Làm quan sáng tác ngàn bài văn.