5- SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐỀ

02 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 39816)
5- SƠ GIẢI TỨ DIỆU ĐỀ

(Pháp Tứ Diệu Đề, Đức Thầy giảng hai lần: năm 1939 và năm 1942. Vì tùy theo cơ duyên mà Ngài viết có khác đôi phần. Là môn đồ, chúng ta cần học hết để dung thông cả hai.

            Cũng cần nên biết thêm, lúc Đức Thầy ở Bạc Liêu ông Nguyễn Chi Diệp có đến hỏi:“Sao bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề, Đức Thầy chỉ luận giải có bốn điều thôi ? Ngài đáp: Khổ đề là tám điều khổ Thầy đã viết trong Khuyến Thiện (Quyển 5). Còn Tập đề là Thập Nhị Nhân Duyên, Đạo Đề là Bát Chánh Đạo trong Quyển 6. Diệt Đề là Môn Hoàn Diệt, Thầy đã viết rồi hết. Dàn bài nầy ông Diệp lưu giữ mãi. Trước khi từ trần, Ông có kể lại cho chúng tôi nghe, nên chúng tôi căn cứ vào đây mà biên soạn”.)

 

DÀN BÀI

          I- KHAI ĐỀ

                   -XUẤT XỨ - VĂN THỂ

          II- DIỄN ĐỀ

                   -ĐỊNH NGHĨA:

          A- KHỔ ĐỀ: (Gồm có các sự khổ trong đời)

                   1- Sanh khổ.

                   2- Lão khổ.

                   3- Bệnh khổ.

                   4- Tử khổ.

                   5- Mưu cầu bất đắc khổ.

                   6- Ái biệt ly khổ.

                   7- Oan tắng hội khổ.

                   8- Ưu sầu lo ngại khổ.

          B- TẬP ĐỀ: (Gồm có các tập nhơn sanh ra quả khổ).

                   1- Tập nghiệp vô minh.

                   2- Thập nhị nhân duyên.

                             a)- Tánh chất và nhân duyên.

                             b)- Tương duyên ba đời.

          C- ĐẠO ĐỀ: (Gồm tám con đường chánh)

                   1- Chánh kiến.

                   2- Chánh tư duy.

                   3- Chánh nghiệp.

                   4- Chánh tinh tấn.

                   5- Chánh mạng.

                   6- Chánh ngữ.

                   7- Chánh niệm.

                   8- Chánh định.

          D- DIỆT ĐỀ: (Phương pháp diệt khổ và hưởng quả Niết Bàn).

          1- Phương pháp diệt khổ:

                   a)- Nương theo Bát Chánh Đạo. Thi hành                              các đức tánh.

                   b)- Đoạn trừ phiền não và thói hư tật xấu.

                   c)- Tự giác, giác tha.

          2- Hưởng quả Niết Bàn:

                   a)- Niết Bàn của Thinh Văn, Duyên Giác.

                             1- Hữu dư y Niết Bàn.

                             2- Vô dư y Niết Bàn

                   b)- Niết Bàn của Bồ Tát và Phật.

                             1- Vô trụ xứ Niết Bàn.

                             2- Tánh tịnh Niết Bàn.

          3- Bốn đức ở Niết Bàn:

                   -  Chơn thường – Chơn lạc - Chơn ngã                             -  Chơn tịnh.

          4- Nhận định.

          5- Khảo sát.

          III- KẾT ĐỀ:

1-     Tóm tắt.

2-     Tổng kết.

 

LƯỢC GIẢI

          Bài “Sơ Giải Tứ Diệu Đề” là một trong những bài Pháp luận do Đức Thầy sáng tác vào năm Nhâm Ngũ (1942). Lúc đó Ngài đang lưu trú tại nhà ông Ký Giỏi ở Bạc Liêu. Ngài viết theo thể văn xuôi, lối thuyết giáo.

          Bài chúng ta đang nghiên cứu và tu học đây, là Đức Thầy giảng theo ý của Đức Phật Thích Ca, nhưng vì tùy theo cơ duyên mà Ngài phương tiện sơ lược những phần chính yếu và có thay đổi số thứ tự hai phần chót.

          Nguyên khởi là lúc Đức Phật rời gốc Bồ Đề, lần đầu tiên Ngài đến “Khổ Hạnh Lâm”(rừng lộc giả), thuyết pháp Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo, để độ năm người cùng tu khổ hạnh với Ngài trước kia, tức là: Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Ma Nam Câu Ly, Thập Lực Ca Diếp. Sau khi nghe pháp năm vị nầy đều tỏ ngộ, đồng chứnh Thánh quả A La Hán. Bắt đầu từ đó Phật, Pháp, Tăng có đủ. (Phật là Đức Thích Ca, Pháp là Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo, Tăng là năm vị A La Hán nói trên).

            Vậy, Tứ Diệu Đề là gì ?

          Tứ Diệu Đề, cũng gọi là Tứ Đế hay Tứ Thánh Đế. Có nghĩa: Bốn pháp thẩm xét mầu nhiệm chơn thật, là pháp tu căn bản và chính yếu trong Đạo Phật nên được các giới tu hành xưng tụng là Bốn chân lý bất diệt.

          Thời nay Đức Thầy cũng dạy:

               “Diệu thâm Bát Chánh lời truyền giáo,

                  Xa thẩm tứ đề tiếng giục ông”.

*

*    *

CHÁNH VĂN

SƠ GIẢI VỀ TỨ-DIỆU-ĐỀ.

           1.- Khổ đề: Gồm  các sự khổ trong đời.

           2.- Tập đề: Gồm có các tập-nhơn sanh ra quả khổ.

           3.- Đạo đề: Gồm có tám đường chánh.

           4.- Diệt đề: Phương-pháp diệt khổ, hưởng quả Niết-Bàn.

          SƠ GIẢI:

 

          A.- KHỔ ĐỀ:

 

          Đức Phật nói rằng tất cả chúng-sanh trong cõi trần nầy chịu muôn ngàn điều khổ-não, kể chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại làm tám điều, vì trong tám điều khổ ấy nó có thể nảy ra muôn ngàn sự khổ-não kia.

 

LƯỢC GIẢI

I- KHỔ ĐỀ: Gồm có các sự khổ trong đời.

          Xưa, Đức Phật cho biết mỗi chúng sanh luân chuyển trong cõi Ta bà, không một ai thoát khỏi sự đau buồn sầu khổ. Đức Thầy nay cũng xác định “Ta bà khổ, Ta bà lắm khổ”. Ý nói mỗi chúng sanh sống trong cõi trần, đều gánh vác muôn ngàn sầu khổ, nhưng tất cả nỗi khổ ấy gồm nhiếp trong tám phần:

                   Đức Thích Ca từ xưa dạy bảo,

                   Khổ Ta bà nhiếp lại tám phần.

                   Bởi chúng sanh mang lấy xác thân,

                   Khổ thứ nhứt sự sanh là gốc”.

CHÁNH VĂN

           1.- Sự sanh khổ - Vì linh-hồn chưa được hoàn-toàn tròn đạo hạnh mà đắc quả vị nên còn phải đầu thai làm con người thế-gian. Khi nhập vào thai trong bụng người đàn-bà thì phải chịu sự tối-tăm tồi-túng, chẳng thấy trời trăng. Bị bao-bọc ràng-rịt, thai-nhi bị sự nuôi dưỡng bằng tinh-huyết của mẹ, lúc mẹ đau ốm thì thai-nhi yếu ớt; lúc mẹ làm-lụng mệt-nhọc, thai-nhi chẳng yên; lúc mẹ đói cơm, thai-nhi dường như cái túi bị treo chẳng vững; lúc mẹ ăn uống no bụng, thai-nhi bị sự lấn-ép của bao-tử và ruột rất nhọc-nhằn. Khi đúng ngày giờ phải chun ra cửa sản-môn ô-uế như hai viên đá ép mình, khi ra khỏi mình mẹ, cảm thấy hơi gió cắt da, đau nhức khó chịu nên cất lên tiếng khóc để tỏ ý chẳng bằng lòng với cảnh cực nhọc.

 

          Xét như vậy nên Phật mới cho sanh là khổ; mà chúng ta là người học đạo, xét cho chí lý đều cũng phải công-nhận sự nhận xét của Phật rất đúng vậy.

 

LƯỢC GIẢI:

          1-Khổ thứ nhứt là sự sanh, tức là các nỗi khổ của mỗi chúng sanh từ khi đầu thai vào bụng mẹ cho đến thuở sanh ra. Lúc ở trong đó bị bào thai bao bọc bịt bùng, như người bị nhốt trong ngục thất. Thai nhi bắt đầu chịu sự nuôi dưỡng bằng chất tinh huyết ô uế của mẹ. Những khi mẹ đau yếu, tinh huyết không đầy đủ, thai nhi phải ốm thon lại. Lúc mẹ đói lòng, bào thai như cái túi treo lơ lửng thường hay chới với. Ngược lại, khi mẹ được ăn uống no bụng thì thai nhi bị sự chèn ép của bao tử và ruột rất chật chội khó khăn. Suốt thời gian ở trong bào thai, thai nhi phải chịu bao lần khổ đau sầu cảm vì ảnh hưởng nơi người mẹ.

          Chẳng thế, khi đúng ngày khai nở, thai nhi phải ép mình chui ra sản môn ô uế, thật là đau đớn vô cùng, như một con voi chun qua kẹt đá nhỏ. Cho nên lúc ra khỏi mình mẹ đứa bé phát ra tiếng khóc “Khổ a !” Chứng tỏ đã nếm lấy cái hương vị cõi đời đầy ô trược.

 

CHÁNH VĂN

           2.- Sự  già khổ - Hễ sanh ra thì lớn, lớn rồi tất phải già; xét nghĩ trong lúc tuổi xuân xanh, đời sống cứng-cỏi, hoạt-động hăng-hái, đi đứng lẹ-làng, nói năng bặt-thiệp, xác thịt mạnh-mẽ, học-hỏi dễ-dàng, tỏ tai sáng mắt, thấy biết nhiều điều. Ô hô ! Mà nay sao lại răng rụng mắt lờ, ù tai, choán óc, da nhăn má cóp, gối mỏi, lưng khòm, nằm ngồi chậm-chạp, đi đứng xéo-xiên, uống ăn đổ tháo, bọn trẻ dể khinh, già đành nhờ cậy, đi tay nương gậy, phế việc dân quan, tinh-thần hao kém; khí lực hầu tàn, thoạt nhớ thoạt quên, nhiều khi lầm-lẫn, tóc bạc da mồi, lắm điều lao nhọc.

 

          Vậy nên Phật mới cho sự già là khổ, mà chúng ta cũng không thể nào không công nhận.

 

LƯỢC GIẢI

          2- Đến giai đoạn thứ hai là sự già khổ. Từ khi cất tiếng chào đời đến thân hình mạnh khỏe, vui tươi của tuổi xuân đầy nhựa sống, như đóa hoa đang cười nụ khoe hương. Phút chốc bị thời gian cướp mất, với tấm thân quắc thước hiên ngang, với bao vẻ yêu kiều diễm lệ, giờ đây chỉ còn trong mộng tưởng. Một nhà thơ đã cất tiếng than:   “Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa,

            Một thân khô kiệt nghĩ buồn tênh !”

          Thật vậy, bấy giờ chỉ còn lại một thân già nua, gầy đét; gối mỏi lưng còm, mắt lờ tai điếc và mỗi khi đi, đứng, nằm, ngồi rất chậm chạp khó khăn. Xét qua thể trạng ấy, thử hỏi khách trần gian, ai mà chẳng công nhận sự già là một nỗi khổ khôn cùng !

CHÁNH VĂN

          3.- Sự đau khổ - Nghĩ vì thân thể con người sanh ra cõi trần, có lớn già thì tất nhiên yếu đuối; nếu đã yếu đuối ắt ăn ngủ chẳng được điều-hòa, thêm ngoài thì bốn mùa thay đổi tám tiết xây vần, do nơi thân già yếu đuối, cảm những tà khí mà sanh ra bịnh tật. Ôi ! Hễ thân huyễn-giả nầy mang lấy bịnh tật rồi, nào là cơn tỉnh, cơn mê, tay chơn nhức-nhối gan ruột quặn đau, phổi héo tim khô, da teo huyết cạn, kẻ mang lao mang tổn, phương đàm ho suyễn, người thì đui cùi lở-lói, bại xuội sưng tê, thang thuốc chẳng an, khẩn nguyền chẳng giảm, cầu sống chẳng đặng, cầu chết chẳng xong.

 

          Vậy thử hỏi khách trần-gian ai mà không muốn xa muốn tránh, mà nào ai được khỏi ? Muốn tránh, tránh chẳng được, lại đa mang; như còn khổ-não về bịnh tật, bút nào mà tỏ ra cho hết.

 

LƯỢC GIẢI

          3-Đến thứ ba là sự đau khổ. Có nhiều nguyên nhân làm cho con người phải vương mang bệnh tật: một là thời tiết bất hòa, gió mưa thay đổi, khiến tạng phủ trong người chuyển theo không kịp mà sanh bịnh. Hai là do sự ăn uống, ngủ nghỉ thiếu chừng mực, vệ sinh, hoặc ăn phải món không hạp cơ thể, mà sanh ra đau yếu. Ngoài ra cũng còn (tham, sân, si) làm ra bịnh.     

          Khi một người đã mang bệnh thì cả thân xác tinh thần lẫn quyến thuộc đồng chịu khổ: thân thì mất ăn bỏ ngủ, đau nhức khó chịu, tâm trí từ lo sợ đến bấn loạn hôn mê. Còn thân quyến thì lo thuốc thang chạy chữa đủ cách. Nhiều bệnh nhân không được lành hẳn, lại còn phải mang tật suốt đời, thật là khổ thảm muôn phần.

                “Cơn bịnh hoạn càng không tránh khỏi,

                   Còn mang thêm tật nọ tật kia”.( ĐT)

CHÁNH VĂN

           4.- Sự chết khổ - Vật chi mà sanh trong cõi trần-gian theo các công-lệ tự-nhiên, hễ có sanh ra thì phải có ngày tiêu-diệt. Còn cái thân con người của ta đã do nơi tứ-đại (đất, nước, gió, lửa) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày tan rã ?

 

          Tại sao mà gọi thân tứ đại hiệp thành ?

          Xét rằng tuy là ta thấy có sự cấu tạo của cha mẹ mà thành thân của ta, nhưng mà cái thân nầy suy gẫm cho kỹ lại: thịt và xương cốt là chất đặc nên thuộc về đất; máu huyết chất lỏng nên thuộc về nước; hơi thở của ta thuộc về gió; sự ấm áp của ta thuộc về lửa.

 

          Nhờ bốn món ấy chung hợp lại mới thành cái xác thịt của ta. Nếu hễ đến ngày tàn hạ rồi thì xương thịt rã ra huờn lại đất, máu huyết chảy ra huờn lại nước, hơi thở dứt đi thì trở lại với gió, sự ấm áp dứt đi thì nó trở lại cái nóng của mặt trời. Như vậy tại làm sao gọi rằng khổ ? Vì lúc sống linh hồn nhờ xác thịt mà học hỏi, kinh-nghiệm việc đời, xử sự tiếp vật, đeo đắm theo lợi lợi, danh danh, tài tài, sắc sắc, không có chịu tra cứu phân biệt cho rõ giả chơn, ý thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp chánh tưởng tà, rồi cũng do sự sai lầm ấy mà nhận huyễn thân nầy làm thiệt thân của mình, mãi lo o-bế sửa-sang, dồi mài cạo gọt, cưng nó dưỡng nó như: tích trữ cơm tiền, dành cho nó ăn, dành để thuốc thang cho nó uống, kiếm tìm thanh sắc để cho nó vui, xây dựng cửa nhà cho nó ở (vẫn biết rằng ở trong đời ai cũng phải lo thân, nhưng mà người hiểu Đạo, biết rõ cái thân của mình tạm mượn trong thời-gian để học-hỏi nên lo vừa chừng, chẳng có ích-kỷ mà lo cho mình vừa giúp ích cho đời, chừng bỏ xác thì có cái khác, còn người không hiểu Đạo thì bo-bo giữ nó bằng lối ích-kỷ mê lầm) ấy là muốn cho nó được trường-tồn; kịp đến khi tử-thần gõ cửa, số vô-thường đã tới, sanh ra muôn ngàn kinh-hãi, thần-trí hôn mê rất triếu mến cõi đời, cửa nhà con vợ, mà không làm sao sống được nữa, nên lúc ấy kẻ phùng mang, trợn mắt, người chắt lưỡi, nghiến răng, lăn lộn giật (vật) mình, kêu than thảm-thiết. Xét coi lúc ấy khổ sở là dường nào.

 

LƯỢC GIẢI

          4-Thứ tư là các nỗi khổ về sự chết. Khi con người lâm cơn bịnh nặng, gia đình hết phương chạy chữa và thân xác không còn chịu đựng nổi, đành đi lần vào cõi chết. Phàm sanh ra cõi đời, hễ cái gì có hình tướng đều phải hư hoại. (Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng). Thế nên con ngưòi hễ có sanh ra tất phải đi theo định luật già, bịnh, rồi chết mất, chớ không một ai thoát khỏi. Những nỗi khổ ấy sâu dày như bể rộng, chẳng biết đâu là bờ bến: “Bể hồng trần lao lý diệu vơi”.( ĐT)

          Thử ôn lại quảng đời con người từ sanh ra đến khi chết, sự lao khổ không sao kể xiết. Sanh ra đã khổ, bệnh tật lại còn khổ hơn, thêm nỗi phải lo sao cho có cơm ăn, áo mặc, dầm mưa dãi gió, xuôi ngược bao lần. Vì mãi tháo vác việc đời mà phải sức cùng lực tận, để rồi một ngày kia cái thân giả hợp nầy, phải theo định luật đào thải mà tan nát và trả về cho tứ đại.

          Xét ra còn cảnh trạng nào đau khổ bằng, khi nhìn thấy con người lúc hấp hối; mắt trừng lên, môi giựt, răng nghiến lại, tâm thần bấn loạn, kinh sợ tiếc thương đều phô diễn, rồi dần dần lịm đi để giã biệt cõi đời ảo mộng.

          Vả lại trong đời biết bao vị Đế Vương khanh tướng, thế lực tiền tài, danh y bác học; họ tìm đủ cách ngăn ngừa cứu chữa để kéo dài tuổi thọ, nhưng rồi cũng phải chịu khuất phục trước luật tuần huờn. Dầu cho ai có học phép trường sanh hay ẩn mình nơi hang cùng, núi thẩm cũng không thoát khỏi tử thần.

          Như xưa kia có bốn Phạm Chí (Phạm Chí là người có chí tu đạt thần thông để về cõi Trời Phạm Thiên) tu hành đã đắc ngũ thông, biết rõ bảy ngày nữa bốn người cùng chết một lượt. Họ bèn hợp nhau bàn luận:

          “Anh em chúng ta tu hành đã chứng ngũ thông, lẽ nào chẳng tìm kế thoát khỏi vòng hái của tử thần sao?”

          Anh thứ nhứt liền nói:“Tôi sẽ nhảy vào trong biển lớn, trên chẳng ló đầu lên mặt nước, chân không đụng đáy biển, làm gì tử thần thấy được để bắt tôi”.

          Anh thứ nhì bảo:“Tôi chẻ núi Tu Di chui vào trong đó, rồi khép kín lại; thử hỏi tử thần làm sao thấy được mà tầm bắt tôi”.

          Anh thứ ba thốt:“Tôi sẽ tàng hình vào hư không, chẳng còn ai thấy tăm dạng, quỉ vô thường biết đâu mà theo bắt”.

          Anh thứ tư cho biết kề hoạch:“Phần tôi sẽ đến chợ đông, đi lẫn lộn vào trong đó, dầu tử thần có đến kiếm cũng không ra !”

          Bàn tính xong, bốn anh đắc ý lắm, mỗi người đều chuẩn bị đi đến chỗ mình đã định. Song đúng bảy ngày, nghiệp quả đã đến, bốn Phạm Chí đều bất lực trước tử thần (chết), họ đều chết một lượt.

          Bấy giờ, Đức Phật biết rõ chuyện ấy, bèn kêu các đệ tử kể cho nghe và nói lên bài Kệ”

                  “Phi không, phi hải trung,

                   Phi nhập sơn thạch gian.

                   Vô hữu địa phương sở,

                   Khả thoát bất thọ tử”.

 

                   (Chẳng không chẳng biển cả,

                   Chẳng vào trong núi đá.

                   Không có miếng đất nào,

                   Thoát được cái chết cả).

          Ngày nay Đức Thầy cũng xác định:

                   “Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,

                   Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi”.

          5- MƯU CẦU BẤT ĐẮC KHỔ:

CHÁNH VĂN

“Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tõi,

Cầu Chẳng Thành những việc thích-ham.

Người trên đời ai cũng lòng tham,

Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của.

Nào vợ đẹp, hầu xinh, là-lụa,

Không được thì bực-tức ưu-phiền.

Cả tâm thần điêu-đứng đảo-điên,

Vậy có phải khổ hay là chẳng ?”

 

LƯỢC GIẢI

          5-Thứ năm là những nỗi khổ: mưu tính, tham cầu mà chẳng thành đạt. Khởi nguyên từ lòng ham muốn chúng sanh mới luân hồi vào cõi dục, nên khi sanh ra, con người sẵn có hột giống tham lam. Ai cũng muốn cho mình được ở lầu các cao sang, nào ruộng cả tiền nhiều, uy quyền thế lực, nào vợ đẹp con ngoan, bạc vàng nhung lụa. Cả gia đình đều sống cuộc đời hạnh phúc triền miên.

          Ngược lại, nếu sự ham muốn ấy không đạt thành, thì con người phải bức rức xốn xang, u buồn dã dượi, cả tâm trí bị quay cuồng đảo lộn, không lúc nào yên tĩnh, có khi phải liều mình tự sát.

          Trưóc cảnh trạng ấy, ai trông vào mà chẳng công nhận đấy là một nỗi khổ ?

          6- ÁI BIỆT LY KHỔ:

CHÁNH VĂN

“Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,

Người mình thương bỗng lại chia-lìa.

Khi khóc-than nước mắt đầm-đìa,

Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.

Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,

Nợ gia-đình đeo đắm căn-duyên.

Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,

Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi.

Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân-ái,

Đến xong đời để lại sầu-ưu.

Cái khổ này dầu lắm trí mưu,

Cũng chung chịu như người tăm-tối”.

 

LƯỢC GIẢI

          6-Thứ sáu là các nỗi khổ của những người thân yêu nhau mà phải chia lìa.

          Ở đời ai cũng có thân bằng quyến thuộc, tình thương yêu thân mến nhau rất mực, nên muốn sống mãi bên nhau, nhưng khó mong toại nguyện. Trong lúc cảm thương khắn khít, bỗng gặp cuộc phân ly, kẻ lệ sầu khôn ráo, người ruột thắt từng cơn; bao nỗi nhớ thương vô cùng chua xót mà cả thế giới loài người có mấy ai vượt khỏi.

          Phàm hễ có gia đình tất phải có sợi dây ân ái ràng buộc, nợ duyên chằng chịt, gốc bởi tiền căn vọng tưởng. Giữa tình cha con chồng vợ lúc nào cũng đậm đà gắn bó, song vì mưu cầu cho cuộc sống, hoặc vì tình cảnh éo le khiến phải chia tay. Lúc ấy kẻ phiêu bạt chơn trời, ôm mối buồn đau, thương xót, người ở lại chờ đợi nhớ nhung. Thì ra cuộc đời chỉ là một trường bi hoan ly hiệp, đau khổ triền miên, ít khi nào được an vui thư thái.

          Sanh ly đã khổ, tử biệt lại còn khổ hơn. Hết hồi tan hiệp, hiệp tan; kế đến nếu có một người chấm dứt cuộc đời thì bao kẻ còn lại đành ôm mối sầu miên viễn. Cái khổ nầy dầu cho bực cao sang, tài trí cũng phải chung chịu như hàng hạ tiện:

               “Cái khổ nầy dầu lắm trí mưu,

             Cũng chung chịu như người tăm tối”.( ĐT)

          7- OAN TẮNG HỘI KHỔ

CHÁNH VĂN

“Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội,

Hễ thương nhau tất có ghét nhau.

Thường tranh-đua tiếng thấp lời cao,

Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán.

Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng,

Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.

Làm cho người đau-đớn âm-thầm,

Khổ như thế diễn ra mãi mãi”.

 

LƯỢC GIẢI

          7- Thứ bảy là các nỗi khổ giữa những người oán thù hận ghét với nhau lại thường gặp gỡ.

          Phàm người ở đời hễ có thương tất có ghét, nguyên do là sự hơn thua cao thấp, tranh chấp giữa nhau, chẳng ai chịu nhường nhịn ai. Từ đó đôi đàng đâm ra oán hờn thù hận, rồi dẫn đến chỗ ấu đả chém giết lẫn nhau”

                   “Thường tranh đua tiếng thấp lời cao,

                   Chẳng nhẫn nhịn thành ra cừu oán”( ĐT)

          Một khi đã thành cừu địch thì không ai còn muốn nghe thấy tăm hơi, hình thể nhau nữa; vì khi gặp nhau lòng rất xốn xang khó chịu, như kim châm vào mắt. Nhưng khổ nỗi càng muốn tránh xa, lại càng thường gặp gỡ.  Nên khi giáp mặt nhau đôi đàng đều ôm ấp nơi lòng bao sự giận hờn, thù ghét. Nỗi khổ nầy cứ thế mà tiếp tục diễn ra như một truyền thống của nhân loại.

          8-ƯU SẦU LO NGẠI KHỔ: 

CHÁNH VĂN

        “Đoạn thứ tám Ưu Sầu lo ngại,

Cuộc tang-thương dâu bể cảnh trần.

Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,

Lo đau-đói liệu cơn nhà rách.

Buồn duyên-số phận mình nhơ sạch,

Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười.

Giàu thì lo chen lấn với người,

Miễn cho đuợc đầy rương đầy tủ.

Của dương-thế góp tom bảo-thủ,

Sợ gian-phi trộm cướp rình-mò.

Lo tước-quyền cho được thơm-tho,

Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.

Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong-thả,

Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say”.

 

LƯỢC GIẢI

          8-Thứ tám là các nỗi khổ lo sợ buồn rầu mà trong đời ít ai tránh khỏi. (Khổ thứ tám, Kinh xưa giải là Ngũ ấm xí thạnh) Bởi cảnh hồng trần là cuộc bể dâu, nay dời mai đổi:

          “Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)

          Cảnh vật còn phải nay bồi mai lở thì kiếp sống con người đâu tránh sự giàu nghèo thay đổi. Ôi ! Bao nỗi vui buồn lo nghĩ tràn ngập tâm tư, bởi lòng người còn nhiều tham vọng và chưa nhận được đời là ảo mộng. Kẻ nghèo thì lo chạy sớm chạy chiều, tảo tần vất vả, nhưng vẫn thiếu trước hụt sau, nào nợ nần chồng chất, đau không thuốc uống, cơm bữa đói bữa no; nào cửa nhà xiêu dột, quần áo rách rưới lang thang. Thật là:

                    “Nhà nghèo dạ tợ như bào,

              Vợ đau con yếu phương nào cho an”.( ĐT)

          Thêm nỗi bị người khinh chê cười nhạo, khiến lòng càng đau buồn tủi nhục cho kiếp sống quá vô phần bạc phước. Đến như hạng giàu sang cũng chẳng mấy ai được an vui thư thái. Vì khi đã dư ăn, lại muốn giàu thêm cho hơn thiên hạ, nên tâm con người chẳng dứt lo nghĩ tính toan. Muốn sao cho mình có ruộng đất thật nhiều, vàng bạc, tiền của đầy ắp cả nhà, bất kể hành động xấu tốt miễn bao gồm tiền của trong thế gian về cho mình là thỏa dạ.

          Chẳng thế, họ còn lo chạy cho mình được có tước quyền danh vọng, để ăn trên ngồi trước hơn người. Hằng đêm còn nơm nớp lo âu, vì sợ trộm cướp đào tường phá cửa. Thế cũng chưa hết, họ còn phải lo tính đến số người thiếu nợ, lời vốn ra sao, hoặc đòi cho được hay cốn chồng lên, để rồi ít lâu có dỡ nhà lấy đất mà trừ.

          Xét như trên: từ hạng nghèo khổ, đến bực cao sang quyền quí, đều phải chung chịu cái khổ “ưu sầu lo ngại” như nhau.

          Đã hiểu qua các sự khổ, giờ đây chúng ta phải làm sao ? - Sợ hãi hay buồn rầu chán nản ? - Chạy trốn hoặc tìm cách chết đi cho hết khổ ?

          Không ! Buồn rầu chán nản vẫn bị khổ thêm, còn chạy trốn hoặc tự sát đâu phải hết, như người trốn nợ làm sao hết được. Nếu còn nghiệp nợ tất phải sanh trở lại để trả. Nghĩa là phải tiếp tục chịu khổ nữa. Đó là định luật: tử sanh, già bịnh, đáo đầu tử sanh, cứ thế mà chúng sanh luân hồi từ vô lượng kiếp tới giờ không có lối thoát.

          Vậy ai muốn thoát khổ, Đức Thầy dạy hãy tìm nguồn gốc của nó mà diệt trừ:

               “Khuyên chúng sanh khuya sớm chuyên cần,

                 Tìm nguồn cội diệt trừ tứ khổ”.

          Để kết luận phần Khổ đề, chúng tôi xin kể lại câu chuyện:

          Xưa, thời Đức Phật còn trụ thế, có bốn vị Tỳ Kheo cùng ngồi lại bàn luận về các sự khổ trong thế gian, cái nào là hơn cả !

          Tỳ Kheo thứ nhứt nói:

          - Theo tôi thì sự sợ hãi là khổ hơn hết !

          Vị thứ nhì trình bày:

          - Sự nóng giận mới là khổ cao độ hơn cả !

          Ông thứ ba bảo:

          - Chỉ có sự đói khát là khổ hơn hết !

          Tỳ Kheo thứ tư cãi lại:

          - Theo tôi thì chỉ có sự ái dục là khổ đệ nhứt !

          Mỗi Tỳ Kheo đều tranh luận theo ý mình, may đâu Đức Phật vừa đi đến, các ông ấy liền đứng lên thi lễ và trinh bày sự nhận xét của mỗi người để nhờ Phật phân định coi lý nào là đúng ?

          Phật liền phán dạy:

          - Các ngươi luận đều phải cả, song các người chỉ biết cái ngọn ngành của các sự khổ, chớ chưa hiểu tận nguồn gốc của nó. Gốc khổ là do xác thân, nếu không có thân, các nỗi khổ do đâu mà có ? – Song sở dĩ có thân là bắt nguồn từ “vô minh phiền não”.

          Căn cứ theo đây chúng ta có thể hiểu: vô minh phiền não ví như hạt giống, xác thân như thân cây, còn các sự khổ như bông, trái. Từ hạt giống (vô minh) mọc lên cây (thân xác) rồi kết bông trái (khổ). Trong trái lại có hạt giống tiếp tục lên cây khác; một vòng nhân duyên tương tục mà dẫn đầu là tập nghiệp vô minh.

          Vậy ai muốn diệt tận gốc khổ (vô minh) phải quán xét qua Tập đề, tức là gốc khổ.

 

CHÚ THÍCH CÁC TỪ NGỮ

          CHÍ LÝ: Rất xác thực, chánh đáng, cùng tột.

          TÀ KHÍ: Không khí xấu, có thể làm sanh bệnh.

          TỬ THẦN: Thần chết. Tử thần gõ cửa là cái chết đến nơi. Vì cái chết không một ai tránh khỏi nên người ta rất ghê sợ, xem như có quỉ thần bắt hồn. Chỉ có người tu hành siêu sanh về Cực Lạc hoặc nhập Niết Bàn mới khỏi cảnh sanh, già, bệnh, chết, như Đức Thầy cho biết:

                   Tử thần kia đâu dám bắt hồn,

                   Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử”.  

          SỐ VÔ THƯỜNG: Số là mạng sống theo một định luật. Vô thường là không thường còn. Vật chi trong thế gian thuộc về hữu hình đều phải biến dịch theo định luật: thành, trụ, hoại, không…Vô thường cũng chỉ cho sự chết, nên người ta quá sợ, xem như có quỉ thần đến bắt. Kinh Niết Bàn có câu:“Vô thường đại quỉ, tình cầu nan thoát”.(Khi quỉ lớn vô thường hiện đến dầu người có cầu khẩn thế mấy cũng không thoát khỏi). Đức Thầy đã bảo:

                   Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,

                   Quỉ vô thường dắt xuống Diêm đình.

                   Sổ sách kia tội phước đinh ninh,

                   Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ”.

         

CÂU HỎI

          1/-Hãy cho biết xuất xứ bài Sơ Giải Tứ Diệu Đề ?

          2/-Đức Thầy sơ giải Tứ Diệu Đề dựa theo đâu và sửa đổi ra sao ?

          3/-Hãy cho biết nguồn gốc Pháp Tứ Diệu Đề ?

          4/-Định nghĩa Tứ Diệu Đề ?

          5/-Tại sao gọi là Khổ Đề ?

          6/-Sự sanh và Lão khổ ra sao ?

          7/-Hãy cho biết khổ thứ ba và khổ thứ tư ?

          8/-Khổ thứ năm và thứ sáu như thế nào ?

          9/-Hãy luận giải khổ thứ bảy và thứ tám ?

          10/-Do đâu có các sự khổ ?

          11/-Muốn thoát khổ Đức Thầy dạy phải làm sao ?

          12/-Muốn diệt tận gốc khổ ta cần biết vấn đề gì ?

*

*    *

II- TỨ DIỆU ĐỀ : TẬP ĐỀ.

          B-TẬP ĐỀ: Gồm có các tập nhơn sanh ra quả khổ.

          Khi đã quán xét các nỗi khổ và nguồn gốc của sự khổ, là do tập nghiệp vô minh phiền não. Hành giả muốn diệt trừ nó cần phải khảo xét qua phần Tập Đề.

          1-TẬP NGHIỆP VÔ MINH:

          Theo Kinh Phật từ trước cá nhà hướng đạo đã phân định. Tập đề gồm có 10 món phiền não căn bản (Tham, sân, si, mạn, nghi. Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ). Và ba món mê lầm là kiết sử và kiến hoặc, tự hoặc (Sai sử trói buộc - Thấy lầm nghi lầm); đó là theo Tiểu thừa. Còn theo Đại thừa thì gồm có kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Vô minh hoặc là đầu mối tất cả, nếu hành giả trừ sạch được nó, tức chứng được Bồ Tát và Phật. Xưa, Đức Phật đã bảo:

                   Chư pháp tùng duyên sanh,

                     Diệc tùng nhân duyên diệt”.

          Có nghĩa các pháp gồm chúng sanh và vạn vật đều do nhân duyên sanh và cũng do nhân duyên mà diệt.

          Do đó, thời nay Đức Giáo Chủ PGHH dạy tắt ngay gốc khổ là “Tập ĐỀ”, tức là “Thập Nhị Nhân Duyên”. Đó là mười hai duyên sanh. Hành giả nào quán xét nó, để diệt sạch tập nghiệp vô minh thì tất cả phiền não đều tiêu tan tức khắc và được chứng quả diệu giác Đại Thừa.

 

CHÁNH VĂN

          2-THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

          Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô-minh mà che lấp bản ngã (linh-hồn) nên làm cho người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp, chịu nẻo luân hồi thống khổ. Đây là 12 duyên sanh: Vô-minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh-sắc, danh-sắc sanh lục-nhập, lục-nhập sanh xúc-động, xúc-động sanh thọ-cảm, thọ-cảm sanh ái, ái sanh bảo-thủ, bảo-thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão-tử.

 

          Đó là 12 duyên-sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia không có dứt; cái vô-minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô-thỉ. Có mê dốt ta mới hành-động, rồi hành-động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết), ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh-sắc, còn ta là loài hữu-tình, cái biết ấy nên có xác thịt và linh-hồn, danh-sắc. Xác thịt và linh-hồn có thì phải có 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhiễm với 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục nhập. Có lục nhập mới có tiếp xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc động, rồi từ chỗ tiếp-xúc mới thọ hưởng của tiền-trần nên gọi là thọ-cảm. Có thọ-cảm, thọ hưởng của tiền-trần rồi mới có cái ưa thích, quyến-luyến, thâm tình nên gọi là ái.   

 

          Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó, thì ta phải gắng công gìn-giữ chặt-chịa nên gọi là bảo-thủ; mà gìn-giữ chặt-chịa thì mới có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc ấy mới đầu thai trở lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn vật hễ sanh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa) làm nên nào là tứ thời, cảm-mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất là phải chết nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp-nhơn của già, chết, ấy là tại cái vô-minh mà ra tất cả.

 

LƯỢC GIẢI

          Trong đoạn mở đề của bài “Thập Nhị Nhân Duyên”, Đức Thầy cho biết:“Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô minh mà che lấp bản ngã (linh hồn) nên làm cho con người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp chịu nẻo luân hồi thống khổ”. Mười hai nhân duyên, nó duyên chuyền từ cái nầy qua cái khác, có cái nọ mới có cái kia, dẫn đến sanh tử rồi trở lại vô minh. Nhân và quả tương liên với nhau, không bao giờ dứt.

          a)-TÁNH CHẤT VÀ DUYÊN SANH:

          1-VÔ MINH: Là mê mờ tăm tối, không rõ tâm chơn như diệu minh, trở lại nhận lầm các vọng tưởng. Cái giả cho là thật, cái thật cho là giả, như người nhắm mắt nhìn thấy hư không toàn là hoa đóm; một ngọn đèn cho là hai, một mặt trời thấy hai mặt. Vô minh đồng nghĩa với mê si, cho nên vô minh cũng chỉ cho các phiền não: tham, sân, si…Bởi nó là gốc sanh ra vô lượng, vô biên phiền não khác.

          Xưa, có người khách đến hỏi vị Tổ sư:

          -Thế nào là vô minh ?

          Tổ Sư trả lời:

          -Quê mùa dốt nát đến thế, cũng đến chùa hỏi Đạo lý !

          Ông khách nổi giận, mặt mày đỏ bừng…

          Tổ Sư nói tiếp:

          -Vô minh là tánh sân của ông đó !

          Thời nay Đức Thầy cho biết:

                   “Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.

                   Màn vô minh che mờ căn trí,

                   Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.

                   Lo huyễn thân vật chất kém hơn,

                   Chẳng tìm biết tinh thần Đạo đức”.

          2-HÀNH: Hành ở đây là hành động của tâm thức, là sự sinh hoạt của tư tưởng. Từ chỗ mê lầm nhận cái giả cho là thật của mình. Do đó, tư tưởng mới lo nghĩ tính toan và ước mơ những phù hoa ảo ảnh. Ví như người bắt bóng trong gương, làm sao có được. Thế mà tư tưởng vẫn:“ Đeo tuồng mộng huyễn lập lòe sắc hương”.( ĐT)

          3-THỨC: là biết, là cái phân biệt của tinh thần. Do sự tính toan mơ ước của vọng tưởng mới có hiểu biết và phân biệt vạn pháp trong thế gian. Ấy là nghiệp của tinh thần. Từ đó mới bị nghiệp hút thần thức đi đầu thai để thọ chịu quả báo vui hoặc khổ.

          4-DANH SẮC: Gồm hai phần: xác thể và linh hồn. Bởi thần thức (linh hồn) là phần vô hình nên chỉ có tên gọi; ấy thuộc về danh. Nhưng khi vào trong bào thai của người mẹ thì có thêm xác thể (hữu hình) nên gọi là sắc.

          5-LỤC NHẬP: Là sáu chỗ vào. Đã đầu sanh vào bụng mẹ, thai nhi lần lần có đủ 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý như 6 cánh cửa để tiếp rước 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nhập vào, nên gọi là Lục nhập.

          6-XÚC ĐỘNG: là tiếp xúc và cảm động, ưa nhiễm giữa căn và trần. Như mắt thì tiếp với các màu sắc hay sắc người đẹp, xấu; tai tiếp với các thứ tiếng hay, dở; thân va chạm với các vật thô, mịn, trơn, nhám; ý tiếp với vạn pháp vô hình hay hữu hình trong thế gian, rồi khởi tâm phân biệt, ưa nhiễm, tạo tác để thụ hưởng.

          7-THỌ CẢM: Là thụ lãnh và cảm giác. Khi được hưởng thụ lục trần và mọi cảnh vật bên ngoài, thì sanh ra thỏa thích mê say theo các cảnh vật ấy. Thân tâm chỉ biết hành động theo lòng ham muốn năm điều dục lạc.

          8-ÁI: Ái là yêu thích. Sau khi thọ hưởng mọi điều dục lạc trong cõi trần, thì lòng ưa thích tham nhiễm ngày càng sâu đậm hơn, không phút nào muốn rời rứt hay dừng nghỉ.

          Đức Thầy cảnh giác:

                   Hồng trần ái dục giết tài hoa”.

          9-BẢO THỦ: Là gìn giữ không để mất. Hễ cái gì con người đã yêu thích và tạo tác ra đặng, thì cố tâm gìn giữ cho kỳ được, để vui hưởng lâu dài.

          Nếu rủi bị mất đi hay sắp sang tay người khác thì quyết tâm giành giựt trở lại.

          10-HỮU: Là có. Hễ có nghiệp nhân tất có hưởng quả, do từ lòng tham ái rồi mưu cầu tạo tác để hưởng thụ cho vừa ý, nhưng biết bao giờ mới thỏa mãn. Cho nên cứ ham muốn thêm nữa, nếu mất đi thì rất luyến tiếc. Đó là nguyên nhân cho sự luân hồi qua kiếp khác. Đức Thầy đã diễn tả:

                    “Hố sâu tình dục lại ghiền,

            Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan tài”.

          11-SANH: là sống, tức đầu thai trở lại. Do nghiệp tham nhiễm dục lạc: danh, lợi, tình không ngằn mé đó, hút thần thức đi đầu sanh ra xác thân khác; để: một là thỏa mãn lòng khát ái, và hai là trả những cái quả do nghiệp bất lành, ô nhiễm đã gây tạo từ nhiều kiếp trước. Song trả mãi cũng chưa hết, vì nó song đôi với lòng khát ái. Cho nên phải luân chuyển hết kiếp nầy sang kiếp khác, như người ăn trái cây, trong trái sẳn có hột rồi gieo xuống đất, để sanh cây trái khác:

             Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy”.( ĐT)

          12-LÃO TỬ: Là già, chết. Đây là một định luật: sanh, già, bịnh, chết xưa sao nay vậy. Đức Thầy thường cho biết:

                  “Trên dương thế hữu hình tắc hoại,

                   Có sanh ra khổ hải đâu chừa.

                   Trải bao phen dãi gió dầm mưa,

                   Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát”.

          Đã là hữu hình thì vạn vật hay loài người cũng vậy, đều phải có hạn định thời gian xoay chuyển. Thế thì:“Cây già cây cỗi, người già người suy”.(Ca dao). Cho đến vũ trụ đi nữa cũng phải chung chịu theo định luật: thành, trụ, hoại, không; nhưng không, chưa phải là hết mà phải trở lại kiếp thành. Còn chúng sanh cũng phải chết rồi sanh trở lại, đây là định luật sanh rồi tử, tử rồi sanh, liên tục với nhau như bánh xe xoay tròn, không biết đâu là đầu mối. Đức Thầy đã xác định:

                   Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,

                      Mắc trong vòng sanh tử luân hồi”.

          Ý Ngài còn dạy: từ vô minh đến lão tử là 12 duyên lành; chính nó là nghiệp nhân chi phối con người phải luân chuyển mãi trong cõi Ta bà và gánh chịu vô vàn thống khổ.

          b)- TƯƠNG DUYÊN BA ĐỜI:

          Khi đã hiểu rõ hành trạng và sự diễn biến của 12 duyên sanh, chúng ta nên biết qua sự tương quan ba đời của nó. Có thể chia làm hai phần như sau:

          1-Phần thứ nhứt: Là sự luân chuyển qua ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai.

          Khởi nguyên từ vô minh và hành là cái nhân quá khứ rồi kết thành cái quả hiện tại là thức và danh sắc, tức là cái hiểu biết phân biệt và xác thân. Khi đã có xác thân tức có lục nhập, xúc động, thọ cảm làm cái nhân hiện tại.

          Từ chỗ xúc, thọ mới sanh ra ái, tức là yêu thích tham cầu là cái quả hiện tại (ái). Trong cái quả hiện tại nầy lại có cái bảo thủ và hữu làm thành cái nhân hiện tại.

          Nhân đó, mới có cái quả vị lai là sanh và lão tử. Lúc có xác thân khác, tất phải có các nỗi khổ của thân và tâm, dẫn tới già bịnh chết, tức là cái quả hiện tại. Khi đó lòng chứa đầy phiền não, tâm trí mê mờ nên trở lại vô minh khát ái nữa. Đó là cái nhân hiện tại để tạo ra xác thân khác nữa, tức là cái quả vị lai.

          Vậy 12 duyên sanh như cái vòng xích sắt móc nối từ khoen nầy sang khoen khác, không biết đâu là đầu mối. Cũng như một cuộn tơ rối, nếu chưa phải tay nghề, khó mà tháo gỡ.

          Vậy hành giả muốn ra khỏi vòng lẩn quẩn của 12 duyên sanh, trước phải có lòng giác ngộ (trí huệ) và có gần Minh Sư, bạn thiện để nghiên cứu học hỏi kinh pháp, mới tin nhận được mối đầu của nó là vô minh và phương thức tháo trừ.

          2-Phần thứ nhì: Từ chỗ tâm trí mê mờ (vô minh) mới nhận lầm mọi sự việc, không phân biệt được chơn giả, tà chánh, lành dữ; ấy gọi là mê lầm (hoặc). Từ mê lầm con người mới toan tính tham cầu, rồi nghĩ tưởng nói làm các điều bất thiện đó là hành động của thân, khẩu, ý (nghiệp). Bởi cái nghiệp bất lành đó con người mới gánh lấy cái hậu quả vô cùng đau khổ (khổ). Nhưng sống trong cảnh sầu khổ chưa tỉnh giác được, nên phải lầm lạc trở lại, rồi khởi lòng luyến ái tham cầu nữa. Thế là bị sức mạnh của nghiệp hút đi đầu thai vào thân xác khác…

          Vậy ba phần: hoặc, nghiệp và khổ cứ xoay vòng không dứt, không dừng; con người khó tìm được lối ra.

          - Tóm lại, xưa nay trong thế giới loài người, muốn tìm hiểu nhân sinh và vũ trụ quan, có nhiều khái niệm khác nhau. Tuy nhiên chỉ có thuyết “Nhân duyên sanh” là rõ ràng và chính xác hơn cả.

          Lúc Đức Phật còn trụ thế, ông Xá Lợi Phất có hỏi vị tăng lữ là Át Bệ, một đệ tử của Phật:

          - Thầy Ngài dạy thế nào ?

          Ngài Át Bệ liền thuyết về Nhân duyên và đọc tóm tắt một bài Kệ:

          Chư pháp tùng duyên sanh, Diệt tùng nhân duyên diệt.

          Phật ngã Đại Sa Môn. Thường tác như thị thuyết”.

          Có nghĩa: Các pháp do nhân duyên sanh, cũng do nhân duyên mà diệt. Đức Phật của chúng tôi thường dạy nói như vậy.

          Nghe xong, Xá Lợi Phất liền chứng ngộ Đạo quả thanh tịnh. Khi về ông thuật lại cho người bạn là Mục Kiền Liên nghe. Ông nầy cũng được tỏ ngộ. Hai người liền đem hết 200 đệ tử đến thọ giáo với Phật, về sau hai ông trở thành hai trong mười đệ tử lớn của Phật.

          Ngày nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng dạy môn đồ về “Nhân duyên sanh”, tức “Thập Nhị Nhân Duyên”. Nghĩa là nguồn gốc đau khổ của mỗi chúng sanh là do tập nghiệp, vô minh phiền não, tức là 12 duyên sanh, mà đầu mối của nó là vô minh; hễ vô minh tan thì nghiệp và khổ không còn. Lúc đó hành giả sẽ tự tại giải thoát. Cho nên về “Tập đề” Ngài chỉ đưa ra 12 nhân duyên mà thôi.

 

CHÚ THÍCH TỪ NGỮ:

          BẢN NGÃ: Cái thật ta, là bản chất của mọi người và vạn vật. Theo Phật học thì nó là cái thể tánh chân như của muôn loài và vạn vật trong vũ trụ; nên cũng gọi là Đại ngã, hay chơn ngã (khác với chữ Bản ngã trong Chánh kiến).

          VÔ THỈ: Không có đầu đuôi, không biết khởi đầu từ đâu.

          TỨ THỜI: Bốn mùa, tức là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chỉ cho thời tiết thay đổi.

          HỮU TÌNH: Gồm các chúng sanh có tri giác, có mạng sống. Đây chỉ cho loài người và các loài: Noãn sanh, Thai sanh, Thấp sanh và Hóa sanh:

             Được dắt chúng hữu tình thoát khổ”.( ĐT)

          VÔ TÌNH: Vật không có tri giác, như: cỏ, cây, sắt đá…

          QUYẾN LUYẾN: Nhớ nghĩ yêu mến nhau không nỡ rời xa.

          THÂM TÌNH: Tình thương yêu rất đậm đà sâu rộng:“Liệu lượng thâm tình tợ biển sông”.( ĐT)

          NGHIỆP NHƠN: Cái nhơn duyên gây tạo ra nghiệp lành hay dữ, để rồi phải hưởng lấy cái quả vui hoặc khổ.

CÂU HỎI

          1/-Hãy định nghĩa phần Tập Đề ?

          2/-Theo Kinh xưa thì Tập Đề gồm có những gì ?

          3/-Thời nay Đức Thầy dạy Tập Đề như thế nào ?

          4/-Mười hai duyên sanh gồm có những gì ?

          5/-Cho biết tánh chất và sự duyên sanh của 12 nhơn duyên ?

          6/-Sự tương duyên của 12 nhơn duyên trong 3 đời gồm có mấy phần, kể đại cương ?

          7/-Nhận xét sự tương duyên thứ nhứt ra sao ?

          8/-Nhận xét các tương duyên thứ nhì như thế nào ?

          9/-Theo Phật học giúp ta hiểu nhân sanh quan và vũ trụ quan ra sao ?

          10/-Tại sao Tập Đề Đức Thầy chỉ đưa ra 12 duyên sanh mà thôi ?

*

*    *

III- TỨ DIỆU ĐỀ : ĐẠO ĐỀ

 

LƯỢC GIẢI

          C-“ĐẠO ĐỀ”: Gồm có Tám con đường chánh, tức là “Bát Chánh Đạo”.

          Khi đã hiểu qua các nỗi khổ và nguyên nhân sanh khổ, Đức Thầy liền chỉ cho chúng ta con đường thoát khổ, tức là “Đạo Đề”. Chính nó là chơn lý mầu diệu vô cnùg, là con đường chơn chánh sáng suốt và rộng lớn vô biên. Cũng là chìa khóa để tháo gỡ 12 vòng xích sắt (nhân duyên) trói buộc con người trong luân hồi sanh tử. Xưa nay, hành giả nhờ Đạo để mà thoát ly sanh tử để tiến tới cảnh bất sanh bất diệt, ‘Niết Bàn tịch tịnh”.

          Theo kinh sách từ trước thì Đạo Đề gồm có 37 phẩm trợ đạo (Gồm có: 4 pháp niệm xứ, 4 pháp như ý túc, 4 pháp chánh cần, 5 căn, 5 lực, 7 pháp giác chi, 8 pháp Đạo phần (tức Bát Chánh Đạo). Thời nay Đức Thầy dạy Đạo Đề là tám con đường chánh, bởi nó là pháp tu căn bản, then chốt trong 37 phẩm trợ đạo. Hành giả chỉ cần tu Bát Chánh Đạo, cũng đủ đập tan 12 duyên sanh mà ra khỏi sanh tử. Bát Chánh Đạo rất thích trung với mức sống tinh thần và thể xác cho các giới tu hành dù xuất gia hay tại gia. Mục đích là cải thiện những tư tưởng, hành động và ngôn ngữ con người trở thành chí chơn chí mỹ. Cho nên Đức Thầy hằng dạy môn đồ:

                  “Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy,

                   Là chơn truyền của Đức Thích Ca”.

          Do đó, Ngài nói rõ:“Bát Chánh Đạo là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển trên đường giải thoát”.

          Để thấu đạt pháp tu nầy, chúng ta cần phải nghiên cứu tu học từ điều một.

          I- ĐẠO ĐỀ : BÁT CHÁNH ĐẠO

          1- CHÁNH KIẾN

CHÁNH VĂN

          CHÁNH-KIẾN.- Chánh: đúng sự thật, Kiến: thấy, xem xét. Chánh-kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.

          Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự-thật. Khi vì thiếu sự sáng suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán đoán không công bình chánh đáng, làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục Chánh-Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng, công-bình.

          Chẳng thế, nó còn giúp ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả-dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.

 

LƯỢC GIẢI

                   A-Định nghĩa:

          Theo lý nghĩa Đức Thầy giải: Chánh kiến cũng gọi là Chánh tri kiến. Chánh là đúng sự thật, tức là chơn lý. Kiến là nhìn thấy xem xét. Cái thấy ở đây, không những thấy bằng mắt mà phải thấy bằng năng lực trí huệ của mình. Cho nên Ngài dạy:

“Đạo mầu Bát Chánh rán ghi,

Thứ nhứt Chánh kiến việc chi xem nhìn.

Luận bàn chơn lý cho minh,

Việc chi xét đoán xảo tinh mới là”.

          Chánh kiến có diệu năng đối trị tà kiến, tức là sự thấy biết xem xét tà vạy.

          Vậy hành giả muốn có Chánh kiến, trước hết phải biết nguyên nhân, tướng trạng và tai hại của tà kiến ra sao ?

          B-Nguyên nhân sanh Tà kiến:

          Đức Thầy bảo:“Phàm con người thường hay bị bản ngã lôi cuốn, trí mờ ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật”.

          Bàn ngã là cái ta cố hữu. Con người hay bảo thủ: nào xác thân nầy của ta, gia tài, sự nghiệp, vị danh quyền tước của ta, nào vợ con thân quyến, đến đất nước quê hương đều của ta vĩnh cửu. Do sự tham ái gìn giữ riêng tư đó làm cho trí huệ mờ lu mà sanh ra tà kiến mê lầm.

          C-Hành trạng Tà kiến:

          Bởi tâm trí mờ ám, không sáng suốt nên khi xét đoán mọi sự việc, người ta thường dựa vào lòng tư thù hay lợi kỷ. Nghĩa là phân định làm sao cho mình có lợi là được, ai thân thương với mình thì binh vực, vị tư; ai thù oán thì chê bai ghét bỏ. Cho nên cuối cùng chỉ rước lấy tai hại.

          D-Tai hại Tà kiến

          1-Người còn tà kiến thì suốt đời không tìm biết con đường ngay chánh; nhận xét mọi việc đều lầm lạc, không đúng chơn lý, như những người mù rờ voi…

          2-Từ trong gia đình thân tộc, đến ngoài các giới quan trường, xã hội mỗi khi có việc phán xét đều không được công bình chánh đáng, khiến bao nhiêu kẻ khác chịu oan khúc đau thương.

          E-Hành Chánh kiến:

          Muốn được Chánh kiến, Đúc Thầy dạy môn đồ những điểm như sau:

          1-Đối diện với mọi sự việc dù lớn hay nhỏ, công hay tư, vô hình hay hữu hình đều dùng diệu năng của trí huệ cứu xét cẩn thận, phân định chu đáo để tránh sự lạc lầm:

                  “Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,

                   Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà.

                   Dầu việc người hay việc của ta,

                   Nên phán đoán cho tường cho tận”.( ĐT)

          2-Trước khi giải quyết vấn đề gì cũng phải quan sát cực điểm, phán đoán tận tường, hầu tránh những tà kiến.

          3-Xét rõ các điều tục lụy trong trần là xiềng xích, là tạm giả nên không tham đắm ích kỷ.

          4-Xét rõ quả báo không những việc làm, lời nói mà cả ý tưởng, nên luôn ngăn ngừa các điều dữ và làm hết các việc lành.

          5-Xét rõ chơn lý Phật pháp là hơn hết nên hướng theo cho đến chỗ tinh vi rốt ráo.

          6-Xét rõ các tà thuyết dị đoan, bùa chú, linh ứng không bền và chẳng đưa người đến chỗ giải thoát; ngược lại, rất có hại cho đời sống hiện hữu và tương lai, nên lòng ta không hề mong muốn.

          F.Lợi ích Chánh kiến:

          Hành giả khi hành đặng Chánh kiến sẽ kết quả:

          1- Tránh được tà kiến, dẹp tan bản ngã và phá sạch Ngũ lợi sử (5 món phiền não lanh lợi, tức là kiến hoặc). Chẳng lầm tà thuyết dị đoan.

          2- Hiểu thấu rõ ràng mọi việc chơn giả không hề lầm lẫn, phán đoán các việc luôn được chí công, bình đẳng.

          3- Không còn say mê các điều tục lụy, thấu đạt lý nhiệm mầu của Đạo pháp.

          4- Mãi nương về với chơn lý, thoát đọa hồng trần.

          G-Kết luận:

          Tóm tắt khi người tu hành được Chánh kiến thì không còn kiến thức sai lầm, mười món phiền não hết trói buộc, sai sử thân tâm. Bấy giờ tâm hành giả thường được vô úy tự tại, và tiến hành phương pháp lợi lạc cho các tầng lớp chúng sanh, thẳng đến khi thành Đạo Bồ Đề.

 

TỪ NGỮ

          BẢN NGÃ: Cái ta, chấp có ta và coi ta là trên hết.

          TƯ THÙ: Thù riêng.

          LỢI KỶ: Lợi ích riêng mình.

          TRÍ NĂNG: Năng lực của trí huệ, rất mầu diệu sáng suốt.

          TRUY CỨU:Theo dõi để cứu xét tìm hiểu tận gốc.

          CỰC ĐIỂM: Điểm cao hơn hết, tới chỗ cùng tột.

          TỤC LỤY: Những điều phiền lụy thống khổ trong cõi trần tục.

          HỒNG TRẦN: Bụi đỏ. Ý chỉ cõi đời đầy bụi bậm nhớp nhơ đau khổ. Đức Thầy bảo:

                   Hồng trần biển khổ thấy rồi”.

 

CÂU HỎI

          1/-Theo kinh xưa giải Đạo Đề gồm có những gì ?

          2/-Tại sao Đức Thầy dạy Đạo Đề chỉ có Bát Chánh Đạo ?

          3/-Bát Chánh Đạo có diệu năng gì với người tu hiện tại ?

          4/-Hãy định nghĩa Chánh kiến và Tà kiến ?

          5/-Bản ngã là gì, muốn dẹp nó ta phải làm sao ?

          6/-Do đâu sanh tà kiến ?

          7/-Hành trạng của tà kiến ra sao ?

          8/-Người sống theo tà kiến có tai hại gì ?

          9/-Muốn hành Chánh kiến phải làm sao ?

          10/-Hành đặng Chánh kiến có lợi ích gì ?

          11/-Cho biết kết luận mục Chánh kiến ?

*

*    *

          II-ĐẠO ĐỀ : CHÁNH TƯ DUY

 

CHÁNH VĂN

          CHÁNH TƯ-DUY.- Tư tưởng chơn-chánh.

          Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng ...; cái tư tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thể nào thoát-ly ra được. Ấy là phần tà.

          Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời-Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm luân oan-nghiệt. Hãy tin tưởng Phật-Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phuớc lành cho nhân chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu-tỉnh.

 

LƯỢC GIẢI

          A-Định nghĩa:

          Chánh tư duy là các tư tưởng chơn chánh, cao khiết, có lợi ích cho muôn loài.

          Tà tư duy là tư tưởng tà vạy, xấu ác có hại cho mình và nhiều người khác.

          B-Nguyên nhân sanh tà tư duy:

          Bởi chưa làm chủ được tâm trí mình, nên bị các thị dục cám dỗ, sai khí6n làm cho nảy sanh các tư tưởng tà vạy xấu ác.

          C-Hành trạng tà tư duy:

          Từ nguyên nhân đó, tư tưởng con người luôn mong ước tính toan, làm sao cho có tiền của thật nhiều, danh phận tước quyền cao lớn, tình ái hơn người để thụ hưởng đầy đủ, thỏa mãn.

          Do đó, lòng luôn có những tư tưởng hận thù, tội khổ, không phút nào bình tịnh, an vui.

          D-Tai hại:

          1-Người sống theo tà tư duy, tâm trí luôn chứa chấp những ý nghĩ tà quấy, suy xét sai lầm, tâm tư tán loạn, khiến mờ đục trí huệ.

          2-Bị những tư tưởng ấy rù quến tâm trí mãi quay cuồng trong ngũ dục (Năm sự ham muốn: tiền của, sắc đẹp, danh vị, ăn uống, ngủ nghỉ), và luôn bị lặn ngụp trong bể trầm luân thống khổ, hết kiếp nầy qua kiếp khác.

             Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.( ĐT)

          E-Hành Chánh tư duy:

          Để tránh những tai vạ nói trên, hành giả nên ghi nhớ các phương thức như sau:

          1-Dù sống trong hoàn cảnh nào, hay bận làm công việc gì, cũng giữ tâm mình luôn được bình thản, yên lặng và trong sạch, sáng suốt.

          2-Giữ tư tưởng thanh cao bằng cách chuyển hóa, thay đồi ý tưởng tà quấy ra chánh chơn thiện mỹ. Đức Thầy dạy:

                   Chánh Tư duy mục ấy thanh cao,

                   Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ”.

          3-Tự lấy trí lực tìm hiểu chơn lý để thực thi cho thành đạt cái Đạo, tức là bổn phận của mình đối với chúng sanh, với Trời Phật và với cá nhân mình:

          -Đối với chúng sanh ta phải tập trung tư tưởng vào công cuộc tìm phương cứu vớt sanh linh, tỉnh giấc mê lầm, thoát vòng trầm luân khổ hải.

          -Đối với mình, ta phải tự tư duy tìm phương giải thoát cảnh trầm luân thống khổ, bằng cách “Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh” cho đến khi quả mãn công viên.

          G-Lợi ích Chánh tư duy:

          Khi hành được Chánh tư duy, hành giả sẽ đặng kết quả các phần lợi ích:

          1-Dứt hết tư tưởng tà vạy và hoặc nghiệp phiền não (tư hoặc). (Tư hoặc là tư tưởng lầm lạc, nghĩ lầm)

          2- Không còn bị ngũ dục làm điên đảo trí năng.

          3-Trí huệ sáng mầu, như Sa Di Suy Ca thời xưa, chỉ nhứt tâm chuyển hóa tư tưởng từ sáng mai đến đúng ngọ là thành Đạo…

          4-Cảm thông mọi thống khổ của chúng sinh đê tùy phương tiện thích trung mà giáo hóa.

          H-Kết luận:

          Tóm tắt khi người tu hành được Chánh tư duy, không còn tư tưởng mê mờ, rối loạn, suy nghĩ bất chánh làm tổn thương cho mình và kẻ khác. Tâm tánh luôn được bình tịnh sáng suốt và đối trước mọi việc đều thấu đạt chơn lý.

CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

          THỊ DỤC: Các sự ham muốn.

          CÁM DỔ: Rù quến, quyến rũ làm làm cho người say mê theo.

          QUAY CUỒNG: Xoay vòng theo không thoát ra được, cũng chỉ cho sự xoay trở một cách vất vả.

          BÌNH TỊNH: Bình là yên lặng, bình đẳng không phân biệt thiên chấp. -Tịnh là trong sạch, sáng suốt.

                   “Nếu ai mà biết chữ tu trì,

                Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.( ĐT)

          CHƠN LÝ: Cũng viết là chân lý. Có nghĩa là lý lẽ chân thật, là lẽ phải. Chơn lý cũng gọi là Đạo, là bản thể tuyệt đối. Đức Thầy có câu:

                   Bàn với luận đặng coi chơn lý”.

          ĐẠO: (Chữ Đạo ở đây có giải trong phần Lược giải)

          SANH LINH: Sanh mạng, chỉ cho giới hữu tình, tức là loài có mạng sống          .

          OAN NGHIỆT: Mầm móng tai hại tự mình gây ra rồi tự hưởng lấy.

          ĐẤNG THIÊNG LIÊNG: Người đáng tin tưởng và sùng kính. Chỉ cho chư vị: Phật, Tiên, Thần, Thánh.

          NHÂN CHỦNG: Giống người, loài người.

          LẠC ĐẠO AN BẦN, XẢ THÂN TU TỈNH: Là an vui trong cảnh sống nghèo (tri túc thường lạc) để dồn hết thân tâm vào việc tu hành Đạo đức..

 

CÂU HỎI

          1/-Hãy định nghĩa Chánh tư duy và Tà tư duy ?

          2/-Lý do nào sanh tư tưởng tà vạy ?

          3/-Hành trạng Tà tư duy như thế nào ?

          4/-Tai hại của Tà tư duy ra sao ?

         5/-Muốn được Chánh tư duy phải làm sao ?

          6/-Hành Chánh tư duy xong được lợi ích gì ?

          7/-Kết luận người tu được Chánh tư duy như thế nào ?

          8/-Chữ Đạo trong Chánh tư duy có nghĩa ra sao ? Và muốn thực hiện cho đúng ta phải làm gì ?

*

*    *

        III- ĐẠO ĐỀ : CHÁNH NGHIỆP

 

CHÁNH VĂN

          CHÁNH-NGHIỆP.- Việc làm chánh đáng ngay thẳng.

          Đối với kẻ xuất gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.

          Những kẻ tại gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn: kẻ buôn tảo bán tần, người việc này việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi phối song cái chi-phối ấy, khác hẵn với kẻ gian tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ .. v..v..

          Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy lạc, hoang-đàng, trà đình tửu điếm …Họ là đồng loã mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say sưa.

          Thế nên mục Chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.

          Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.

 

LƯỢC GIẢI

          A-Định nghĩa:

          -Chánh nghiệp là các việc làm ngay chánh, hiền lành, chân thật, có lợi ích cho muôn loài.

          -Tà nghiệp là những hành động tà vạy, xấu xa, gian ác, có hại cho mình và kẻ khác.

          B-Nguyên nhân sanh Tà nghiệp:

          -Theo Đức Thầy cho biết: các tăng ni xuất gia nhờ làm các công việc Đạo nên ít gây ác nghiệp.

          -Giới cư sĩ vì muốn mưu cuộc sống còn và phải tiếp xúc, va chạm với mọi người, mọi giới trong xã hội, nên dễ sanh tà nghiệp.

          C-Hành trạng Tà nghiệp

          1-Người sống tà nghiệp hay làm những việc gian ác, tổn thương đến quyền lợi, danh dự, hạnh phúc và mạng sống của mọi loài, như: sát sanh, đạo tặc, tà dâm, đầu cơ, cho vay cắt cổ…

          2-Tạo các nghề nghiệp khiến cho kẻ khác đam mê tội lỗi, như nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu…

          D-Tai hại Tà nghiệp:

          1-Ai sống theo tà nghiệp sẽ chuốc lấy tai họa: hiện tại không xứng đáng là một Tăng Ni hay Phật tử, vì bị coi như là phạm giới.

          2-Tương lai hạt giống Đạo và căn trí bị lấp vùi, lâu gặp cơ hội thức tỉnh.

          3-Chết bị đọa ba đường ác và còn phải luân chuyển báo đền nghiệp quả.

          E-Hành Chánh nghiệp:

          Muốn sống theo Chánh nghiệp ta cần phải hành trì những điểm:

          1- Đã tu hành thì giới hạnh tinh nghiêm, chừa bỏ những ác nghiệp như vừa kể trên.

          2- Tôn trọng quyền sống và hạnh phúc chung của mọi người. Tuyệt nhiên không hành động phá hoại, hay tàn sát họ quá vô đạo.

          3- Tôn trọng nghề nghiệp và tài sản của kẻ khác như của mình, nên ủng hộ chớ không mưu mô thâu đoạt của họ quá bất công.

          4- Tôn trọng mạng sống của các loài vật, không làm nghề sát hại, hay đem mối cho người khác giết hại chúng nó.

          5- Tôn trọng lẽ công bằng, không làm nghề kiện cãi hoặc du thuyết việc có hại cho người khác.

          G-Lợi ích Chánh nghiệp:

          Người hành đặng Chánh nghiệp sẽ được các món lợi ích:

          1- Gia đình luôn hạnh phúc, thần trí được khỏe mạnh sáng suốt và no ấm đời đời.

          2- Được mọi người, mọi giới kính phục và mến theo.

          3- Các nghiệp oan tội khổ từ trước bị tiêu dần, và khỏi đọa 3 đường ác.

          H-Kết luận:

          Tóm lại, người hành trì được chánh nghiệp thì diệt hết các nhóm tập nghiệp về thân và không còn các oan trái cay nghiệt. Đời đời thanh tịnh an vui, thẳng đến khi thành Đạo giải thoát.

 

CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

          THAM THIỀN: Tham là suy gẫm; Thiền là tịnh lự, là tư duy. Ý nói để tâm yên tịnh, suy gẫm Đạo lý mầu nhiệm:“Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham thiền”.( ĐT)

          NHẬP ĐỊNH: Vào chánh định, bằng cách ngồi yên lặng hay trong Tứ tướng oai nghi (là: đi, đứng, nằm, ngồi) tâm trí luôn trong lặng thuần chánh và sáng suốt.

          TRÌ TỤNG: Trì là gìn giữ và làm theo; tụng là đọc, xem. Ý chỉ cho việc công phu bái sám, hoặc đọc tụng Kinh sách hằng ngày. Đức Thầy dạy:

                   Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,

                    Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta”.

          KINH HÀNH: Đi một cách thung dung quanh chùa tháp, hoặc chỗ tịch mịch để niệm Phật hay suy gẫm (thiền định) việc Đạo lý để phát sanh trí huệ.

          CÔNG QUẢ: Công là việc làm hay hạnh đức hoặc trí năng của mình làm. Quả là kết quả. Đức Thầy có câu:

                   Nguyện đem công quả tu hành,

                Cứu trong Tông Tổ vãng sanh liên đài”.

          BUÔN TẢO BÁN TẦN: Tần là một loại rau; Tảo là rong biển (rau tần rau tảo). Ý nói bận lo buôn bán hoặc làm nhiều việc vất vả:“Tảo tần lo liệu năm ba”.( ĐT)

          Hay là:“Ta thương xót lo tần lo tảo”.( ĐT)

          BẤT NHÂN: Không có nhân đức, không thương người mến vật.

          ĐẦU CƠ: Đầu là ném lại; Cơ là cơ hội. Thừa cơ hội làm lợi cho mình, bằng cách không hợp lý hợp pháp:“Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi”.( ĐT)

          TRỤY LẠC: Sa ngã vào chỗ hư hèn, như “Tứ đổ tường” (tửu sắc tài khí).

          HOANG ĐÀNG: Cũng gọi là hoang đường. Ý nói người hoang chơi theo “tứ đổ tường” (tửu sắc tái khí), không kể đến nhà cửa, vợ con, cha mẹ…

          TRÀ ĐÌNH TỬU ĐIẾM: Phòng trà quán rượu có chứa gái điếm. Đây chỉ cho hạng người quá đam mê tửu sắc, hằng ngày la lết nơi nhà điếm, quán rượu, không kể đến gia đình, cha mẹ, vợ con. Đức Thầy bảo:

                   “Chốn trà đình xa lánh vãng lai”.

 

CÂU HỎI

          1/-Hãy định nghĩa Chánh nghiệp và Tà nghiệp ?

          2/-Lý do gì người Cư sĩ dễ sanh Tà nghiệp ?

          3/-Hành trạng tà nghiệp như thế nào ?

          4/-Người hành tà nghiệp có tai hại gì ?

          5/-Muốn hành Chánh nghiệp ta phải làm sao ?

          6/-Hành Chánh nghiệp được lợi ích như thế nào ?

          7/-Tóm tắt người hành được Chánh nghiệp có kết quả gì ?

*

*    *

IV- ĐẠO ĐỀ : CHÁNH TINH TẤN

 

CHÁNH VĂN

          CHÁNH TIN-TẤN.- Tín ngưỡng chơn chánh và lướt tới.

          Phái vô thần luận thường cho rằng thân xác tức là con người. Thân còn tức là ngưòi còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả báo luân hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao nhiêu mánh-khoé gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.

          Vì vậy, mục Chánh tinh-tấn này khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu-vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng-sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới, quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà vạy, dẹp lục-căn lục-trần và rán làm cho tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ, yên tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế độ chúng-sanh thoát luân-hồi quả-báo.

 

LƯỢC GIẢI

          A- Định nghĩa:

          - Chánh tinh tấn là tín ngưĩng chân chánh, bền chắc và lướt tới một cách mạnh mẽ.

          - Tà Tinh tấn là mê tín theo các tà thuyết, chần chờ, giải đãi, nghi ngờ Trời Phật.

          B- Nguyên nhân sanh tà Tinh tấn:

          1- Óc dễ tin nghi ngờ và hột giống giải đãi, yếu ớt có sẵn trong tâm thức từ vô thỉ, nên khi gặp sự tuyên truyền của các tà thuyết, vô thần vội nghe theo.

          2- Do các dục tình, vật chất như: danh, lợi, tình hoặc lục trần, lục dục câu nhử, cám dỗ làm ô nhiễm.

          C- Hành trạng Tà tinh tấn:

          Người có lòng tà tinh tấn hoặc tin theo đường tà có những hành trạng:

          1- Không tin có Trời Phật quả báo, luân hồi, tội phước hay Thiên đường, Địa ngục hoặc luân hồi.

          2- Chỉ lo tranh đấu mánh khóe gian hùng, điêu ngoa xảo trá, tàn bạo ngược ngang.

          3- Áp bức mọi người để mình có quyền uy và thụ hưởng trên hết.

          D-Tai hại:

          Người sống theo tà tinh tấn có nhiều tai hại:

          1- Mất chánh tín và gây đau khổ cho muôn loài.

          2- Bị nghiệp chướng kéo dài trong luân hồi sanh tử.

          3- Dù có tu song vì giải đãi yếu ớt, nên rất lâu thành Đạo giải thoát, như anh chàng cày ruộng trong thời Đức Phật còn trụ thế.

          (Thuở Đức Phật còn trụ thế có anh nông dân đang cày ruộng bỗng gặp Đức Phật cùng đồ chúng vừa đi tới. Thấy tướng thể trang nghiêm và hào quang sáng chói của Phật, anh toan bỏ cày đến trước Phật qui y, nhưng nghĩ lại: để mình cày xong miếng ruộng nầy rồi thọ giáo cũng chẳng muộn gì.

            Phật hiểu rõ tâm trạng anh, bèn kêu đồ chúng nói:

            -Các ông có thấy anh cày ruộng kia chăng ? Đã trải qua 91 kiếp, có 7 vị Phật ra đời, hễ mỗi lần thấy Phật, anh đều muốn qui y, song bị lòng chần chờ giải đãi khiến chưa qui Phật được. Nay gặp ta ý cũng muốn đến rồi cũng dừng lại như mấy lần trước.

            Nãy giờ anh cày ruộng đứng lặng yên nghe Phật nói giựt mình liền buông cày chạy đến trước Phật quì xuống xin sám hối qui y.

            Xét thấy: tánh chần chờ lục đục, thiếu tinh tấn làm cho anh cày ruộng chậm lại thời gian bao chục ngàn năm, mãi còn lẩn quẩn trong vòng khổ đau sanh tử).

          E-Hành Chánh tinh tấn:

          Để cho môn đồ có được Chánh tinh tấn, Đức Thầy dạy:

                  “Chánh tinh tấn dầu thành hay bại,

                   Cứ một đường tín ngưỡng của mình.

                   Dầu cho ai phá rối đức tin,

                   Ta cũng cứ một đàng đi tới”.

          1- Vậy ta phải giữ đức tin cho mạnh mẽ, sáng suốt không hề để uy quyền hay thị dục lôi cuốn.

          2- Luôn nhớ đến công cuộc cứu vớt quần sanh của Đức Phật, Đức Thầy và của chính mình.

          3- Tự nguyện ngày nào chúng sanh còn khổ thì ta cũng đồng chịu khổ với họ. Đức Thầy đã nêu gương hạnh:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.

          4- Xét vì ta có bổn phận giác ngộ trần gian, xa miền tục lụy, thoát khỏi nghiệp oan tội khổ.

          5- Phải gắng chí “tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn mà tấn tới”, quyết chí tu sửa thân tâm, đắc thành đạo quả, bằng cách là dẹp cho được các điều tà mị và lấy tâm làm chủ sáu căn, đừng để duyên nhiễm theo sáu trần:“Lấy tâm thần làm chủ mới mầu”. Và:“Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.

          6- “Rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ, yên tịnh, hỷ lạc nghiêm trang”.

          G- Lợi ích Chánh Tinh tấn:

          Nếu ai hành được Chánh tinh tấn sẽ được các phần lợi ích như sau:

          1- Đường tu không còn nghi ngờ, do dự, dứt trừ được “Ngũ độn sử” và luôn thi hành chánh tín một cách mạnh mẽ.

          2- Không còn bị tà thuyết, vô thần hay các thị dục lôi cuốn.

          3- Được chư Thiên, Thần Thánh và 10 phương Phật hộ trì.

          4- Tế độ đặng vô số chúng sanh giải thoát.

          5- Sớm đạt được diệu trí, vào bậc bất thối chuyển.

          6- Được lực vô úy và chóng thành Đạo Bồ Đề.

          H-Kết luận:

          Tóm lại khi hành được Chánh Tinh tấn, hành giả không còn thối đọa trong ba đường ác, mau chứng quả tam giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Luôn đặng tự tại trong công cuộc cứu vớt chúng sanh.

         

TỪ NGỮ

          VÍA: Một phần trong linh hồn con người lúc còn sống. Người ta  thường nói hết hồn hết vía, hay nhẹ bóng vía.

          MÁNH KHÓE: Mưu mô xảo trá.

          GIAN HÙNG: Dối trá xảo quyệt. Đức Thầy có câu:

                   Lũ gian hùng mang lấy họa ương,

                    Trời đất xử những người bội phản”.

          ĐỨC TIN: Sự tin tưởng về Đạo đức cao cả.

          BỨC BÁCH: Ép buộc thúc giục.

          TÍN NGƯỠNG: Lòng tin tưởng và ngưỡng mộ.

          ĐỨC THẾ TÔN: Một trong 10 hiệu của Phật Thích Ca, có nghĩa cả ba cõi thế gian đều tôn Ngài là Thầy, là đấng Cha lành:

                   Ngài là vua Pháp tột cao,

               Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tài.

                     Tiên người đồng kính Đạo Thầy,

               Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh”.( ĐT)

          Và câu:

                   Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,

                   Khắp hạ giái truyền khai đạo pháp”.

          GIÁC NGỘ: Nghĩa của chữ Phật (đấng Giác ngộ), nhưng bốn chữ “Giác ngộ trần gian” ở đây có nghĩa là tỉnh thức kẻ còn mê trong cõi trần.

          OAN TRÁI: Nghiệp nợ do mình tạo tội ác, oan nghiệp kiếp trước mà kiếp nầy phải trả.

          TỰ GIÁC: Tự mình tỉnh ngộ sáng biết, tự giác là một trong tam giác của Phật (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).

                   Lòng tự giác xả thân tầm Đạo”.( ĐT)

          NIẾT BÀN: Phiên âm của Phạn ngữ, Tàu dịch có nhiều nghĩa. Ở đây chỉ giải một ít nghĩa:

          1-DIỆT ĐỘ: Một nơi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.

          2-VIÊN TỊCH: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần gọi là Viên; trí huệ cụ túc, dứt sạch nghiệp chướng khổ lụy gọi là Tịch. Cũng chỉ trở lại bản tâm viên tịch để thoát trầm nịch khổ hải.

          3-BẤT SANH BẤT DIỆT: Chẳng còn một niệm sanh, nên chẳng còn sự chết khổ:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)

          Ngoài ra Niết Bàn cũng còn có nghĩa là vô vi, tịch diệt, giải thoát và an lạc…

          LỤC CĂN: Sáu căn, tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nó hay xúi giục tâm hồn người ô nhiễm theo sáu trần. Nó cũng gọi là 6 con giặc (lục tặc).

          LỤC TRẦN: Sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Đức Thầy dạy:

                   Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.

          YÊN TỊNH: Lặng lẽ trong sạch.

          HỈ LẠC: Vui mừng vì không còn các nỗi khổ làm bận tâm, chẳng phải như chữ hỉ lạc trong thất tình.

          NGHIÊM TRANG: Đoan trang nghiêm chỉnh.

 

CÂU HỎI

          1/-Hãy định nghĩa Chánh tinh tấn và Tà tinh tấn ?

          2/-Lý do nào sanh Tà tinh tấn ?

          3/-Hành trạng Tà tinh tấn ra sao ?

          4/-Người còn tà tinh tấn có tai hại gì ?

          5/-Muốn có Chánh tinh tấn phải làm sao ?

          6/-Người có chánh tinh tấn được lợi ích gì ?

          7/-Hãy giải nghĩa chữ Niết Bàn ?

          8/-Lục căn lục trần là gì ? Và muốn dẹp nó phải làm sao ?

          9/-Muốn được yên tịnh phải tu cách nào ?

          10/- Cho biết tóm tắt mục Chánh Tinh tấn ?

*

*    *

V- ĐẠO ĐỀ : CHÁNH MẠNG

 

CHÁNH VĂN

          CHÁNH-MẠNG.- Sanh mạng chơn chánh, trong sạch.

          Ở đời người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quý trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức phận cao.

          Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ-ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.

          Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh thần bị đen tối, bỏ tất cả đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh: thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết-Bàn.

 

LƯƠC GIẢI

          A- Định nghĩa:

          -Chánh mạng là sanh mạng chơn chánh, trong sạch và sáng suốt.

          -Tà mạng là mạng sống tà vạy, mê mờ, nhơ xấu.

          B- Nguyên nhân sanh tà mạng:

          Người đời vì quá quí trọng thân xác, nên lúc nào cũng lo bảo vệ và chăm sóc bồi dưỡng nó, khiến nảy sanh các hành trạng tà mạng.

          C- Hành trạng Tà mạng:

          Tâm tham lam ích kỷ, lục căn ô nhiễm lục trần như:

          1- Mắt thích xem và luyến ái sắc đẹp.

          2- Tai ưa nghe những tiếng đờn nhạc, ca hát và những lời đường mật, nịnh hót ngợi khen.

          3- Mũi thích ngửi các mùi thơm tho dễ chịu.

          4- Lưỡi ưa dùng các thứ vị: ngọt, béo, chua, cay, mặn, đắng.

          5- Thân ham sự sống cao sang sung sướng.

          6- Ý là đầu dọc của các căn, từ quyền cao danh lớn đến mọi pháp trần trong thế gian nó đều thích ưa ghiền nhiễm.

          D- Tai hại Tà mạng:

          Bởi quá mê ghiền vật dục danh, lợi, tình và 6 trần nên con người tự chuốc lấy tai hại:

          1- Trí huệ càng ngày càng mơ ám ngu đần.

          2- Không hề nghĩ đến luật vô thường của vạn vật, luật sanh tử và nghiệp báo luân hồi của con người, nên họ không chịu tìm con đường giải thoát.

          E- Hành Chánh mạng:

          Muốn được Chánh mạng, theo Đức Thầy dạy chia làm hai phần:

          1-Bên ngoài ta phải xa lánh, tức là đừng duyên nhiễm theo những điều làm cho tinh thần đen tối, như: lục trần, lục dục, đài các xa hoa.

          2-Bên trong phải tự chủ thân tâm, nhằm mục đích bất diệt bất sanh tiến tới:

                   “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,

                   Về chốn ni xa lánh hồng trần”.( ĐT)

          Song muốn đạt đến đó, hành giả trước phải tu thiền định làm thể chất căn bản. Cần nên biết Thiền là tịnh lự là tư duy và quán xét nên gọi là huệ. Còn định là dừng lại, là buông xả hết vọng nhiễm trần lao để tâm được thanh tịnh, bình yân hoặc là:“Ngày đêm phải tự mình suy gẫm, ngăn gió trần cho lặng sóng tâm”. Nếu được như vậy trí huệ sẽ sáng mầu vô tận. Bấy giờ hành giả sống theo trí huệ để nhập thế cứu đời, không hề bị khách trần (6 trần), gạt gẫm lôi kéo:“Cư trần bất nhiễm, lẫn tục đừng mê”.

          Đây là pháp tu Định Huệ mà từ xưa chư Bồ Tát và Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy môn đồ như vậy. Định ví như cây đèn; Huệ như ánh sáng. Vậy ai muốn có ánh sáng để soi tan màn đêm u tối thì trước phải có cây đèn, vì ánh sáng từ cây đèn đó phát ra, cho nên định và huệ luôn tương quan với nhau. Do đó, Đức Thầy dạy chúng ta:“Thiền định đặt làm thể, trí huệ đặt làm mạng”.

          G- Lợi ích Chánh mạng:

          Khi hành giả thiền định được và lúc nào mạng sống cũng nương theo ngọn đèn trí huệ thì sẽ đặng kết quả:

          1- Linh hồn được nhập vào liên hoa tự tánh của chính mình, tức là cái thể thanh tịnh. Nên biết cũng tâm hồ đó, nhưng lúc còn mê loạn gọi là linh hồn mà khi định huệ được rồi thì gọi là Phật tánh. Đức Lục Tổ đã bảo:“Hội giả xưng vi Phật tánh, bất hội giả quán tác linh hồn”.(Pháp Bửu Đàn Kinh) Cái tánh thanh tịnh nầy ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt. Lúc nào cũng trong sạch an nhiên, nên ví nó như hoa sen, tuy từ bùn mọc lên, nhưng không bị bùn làm hoen ố. Cho nên liên hoa được tượng trung cho thể thanh tịnh trong sạch.

          2- Siêu sanh vào cõi Niết Bàn, tức được nhập Niết Bàn. Ở đây Đức Thầy dùng chữ siêu sanh cho mọi người dễ hiểu, khi tâm trí hành giả có đưọc định huệ rồi, tức hòa vào bản lai thanh tịnh, cũng gọi là “Phật hóa tánh tình” thì người với chư Phật chỉ là một. Lúc đó tâm đâu còn vọng sanh ô nhiễm, mà hễ tâm không vọng sanh, tức đâu có gì phải diệt (Tâm sanh chủng chủng pháp sanh, tâm diệt chủng chủng pháp diệt). Như Đức Thầy đã nói:

               Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.

          Đại khái trong hai phần “Thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng” là cái nhân tu hành. Còn “Linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”là cái quả của nhà tu khi thành đạt.

          H- Kết luận:

          Tóm lại, hành giả khi nhận được tà mạng để tránh, Chánh mạng để hành theo thì sau khi đạt được, tức không còn hạt giống sanh tử hay những ác duyên trầm trệ trong lục đạo luân hồi, thân tâm luôn được khinh khoái, vào cõi giải thoát (Niết Bàn).

 

CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

          TRÍ TUỆ: (Xem chữ Trí huệ bài NĐSLCB, T-1, Q.6).

          XA HOA: Chưng diện lòe loẹt tốn kém. Đức Thầy dạy:              Khuyên đừng xài phí xa hoa,

                   Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.

          THIỀN ĐỊNH: Do chữ Thiền na. Có nghĩa để tâm trong sạch, yên lặng mà suy gẫm việc Đạo lý mầu nhiệm, không phân biệt ngồi nằm hay đi đứng, cách nào cũng thiền định được cả. Đức Thầy khuyên:

                   Sớm tối đi nằm y chánh pháp”

          Và:     “Quay về cội phúc đường chân Đạo,

                     Phật pháp Thiền na dốc thực hành”.

          THỂ: là gốc, là bản chất của mọi sự vật. Ví như tất cả bàn, ghế, giường, ngựa…thể chất nó bằng cây làm ra. Các món nữ trang, thể chất nó bằng vàng. Các loại bánh ngọt, thể chất nó bằng bột và đường. Thể chất tốt thì các món làm ra đều tốt. bằng thể chất xấu thì cái gì cũng xấu.

          THIỀN ĐỊNH ĐẶT LÀM THỂ: Nhà tu muốn tiến đến Niết Bàn trước phải tu Thiền định làm căn bản. Có thiền định được trí huệ mới sáng tỏ và mọi suy nghĩ nói làm đều được trọn lành trọn sáng, tiến đến giải thoát. Bằng thiếu thiền định thì ý nghĩ hay nói làm đều xấu ác, quả Đạo bất thành.

          TRÍ TUỆ ĐẶT LÀM MẠNG: Người tu khi trí huệ được sáng tỏ, từ ấy mạng sống nương theo trí huệ mà vào Niết Bàn, không hề sai lệch. Như người đi đêm có đèn đuốc không lầm đường hay va chạm vào cây đá làm thiệt hại thân mạng.

          LINH HỒN NHẬP LIÊN HOA: Thần thức được hòa vào bản lai thanh tịnh tự tánh. Ý nói khi tâm hồn nhà tu được vào thể thanh tịnh, thì đối với các cảnh tượng lành dữ hay danh, lợi, tình…tâm mình vẫn an nhiên tự tại. Cũng như hoa sen dầu sống trong bùn vẫn không bị bùn làm hoen ố. “Cư trần bất nhiễm”, “Lẫn tục đừng mê”.

          SIÊU SANH VÀO CÕI NIẾT BÀN: Cũng gọi là nhập Niết Bàn, tức là siêu thoát vào cõi bất sanh bất diệt. Người tu thiền định được, tuy còn mang xác phàm như bao nhiêu kẻ khác, nhưng tâm hồn đã dứt sạch hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, nên gọi là vào Niết Bàn. Đức Thầy từng nói:

                   Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,

                     Về chốn ni xa lánh hồng trần”.

          Hoặc là:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.

 

CÂU HỎI

          1/-Hãy định nghĩa Chánh mạng và Tà mạng ?

          2/-Nguyên nhân nào sanh Tà mạng ?

          3/-Hành trạng của tà mạng ra sao ?

          4/-Người sống theo tà mạng có tai hại gì ?

          5/-Muốn được Chánh mạng ta phải tu cách nào ?

          6/-Hành chánh mạng xong được lợi ích gì ?

          7/-Thiền định là gì ? Và tại sao Đức Thầy dạy ta phải đặt nó làm thể chất ?

         8/-Hãy cho biết nhân quả trong phương cách hành Chánh mạng ?

          9/-Kết luận mục Chánh mạng ra sao ? 

*

*    *

VI- ĐẠO ĐỀ : CHÁNH NGỮ

 

CHÁNH VĂN

          CHÁNH-NGỮ.-  Lời nói chơn thật.

          Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần.

          Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy cũng có nghiệp chướng của miệng lưỡi: Lưỡng-thiệt: làm cho thiên hạ bất hoà nhau. Ỷ-ngôn: lời chưởi mắng kẻ dưới tay. Ác-khẩu: tiếng độc ác tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh. Vọng-ngữ: nói láo, nói huyễn hoặc.

          Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ cộc cằn. Phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền lương đức-hạnh, những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức.

 

LƯỢC GIẢI

          A-Định nghĩa:

          -Chánh ngữ là lời nói chơn thật, hiền từ, thanh bai hòa diệu có lợi ích cho mọi người.

          -Tà ngữ cũng gọi là ác ngữ, tức là những lời nói dối gian độc ác, không chơn thật dịu hiền, có hại cho mọi người.

          B-Nguyên nhân sanh Tà ngữ:

          Bởi lòng ham muốn nuôi dưỡng xác thân cho được cao sang sung sướng, nên sanh ra muôn ngàn tội lỗi. Trong đây phần lớn là do khẩu nghiệp.

          C-Hành trạng Tà ngữ:

          Hành trạng của tà ngữ có rất nhiều, nhưng đây chỉ tóm tắt trong bốn phần

          1-Lưỡng thiệt: những lời nói hai chiều đâm thọc, thêm bớt làm cho thiên hạ đôi chối, tranh tụng bất hòa với nhau.

                   “Với người nầy dùng lời tha thiết,

                   Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”.( ĐT)

          2-Ỷ ngôn: Lời nói ỷ thị chê bai mắng nhiếc kẻ dưới tay, hoặc kém thiếu hơn mình về mọi mặt.

          3-Ác khẩu: Những tiếng độc ác thô tục…chửi rủa, mời thỉnh các cõi Thần Thánh.

          4-Vọng ngữ: Những lời nói thêm thừa huyễn hoặc, khiến cho người khác hiểu lầm mê tín.

          D-Tai hại của Tà ngữ:

          Người hay nói tà ngữ có nhiều tai hại:

          1-Thường bị mọi người mất niềm tin và chán chê xa lánh.

          2-Chư Thiên và Thần Thánh không ủng hộ, lại còn bị các Ngài trừng phạt cả gia đình, như trường hợp bà lão bồng đứa cháu đến nhờ Đức Thầy trị bịnh…năm 1939. (Xem Chuyện bên Thầy, Quyển 1)

          3-Đời sống chẳng những bị mọi người cô lập, không yên mà còn gây nhân luân hồi quả báo về sau, như câu chuyện người bán ngọc trong tiền thân Đức Phật…

          E-Hành Chánh ngữ:

          Muốn được Chánh ngữ nhà tu cần trì hành những điểm như sau:

          1-Đối với mọi người, mọi giới lúc nào cũng tập sửa lời nói mình cho được chơn chánh, đúng với sự thật.

          2-Bỏ dứt những tiếng xảo ngôn tráo chác, chửi rủa thô tục hoặc kêu mời Thần Thánh Trời Phật.

          3-Khi bàn luận việc chi phải nói ngay thẳng và đối với kẻ dưới bề trên, cần dùng lời hiền lương đức hạnh.

          4-Thường lấy lời hòa diệu khuyên bảo kẻ khác làm theo lẽ phải, có ích lợi cho đời và thích hợp với tinh thần Đạo đức.

          G-LỢI ÍCH CHÁNH NGỮ:

          Khi hành được Chánh ngữ sẽ đặng các món lợi ích:

          1-Khẩu nghiệp luôn thanh tịnh, tập nghiệp xấu ác của miệng lưỡi không còn.

          2-Không bị tai họa vì lời nói, trái lại còn nhờ lời nói chánh ấy giúp mình lập được nhiều công đức.

          3-Thường được chư Thiên và quỉ Thần ủng hộ.

          4-Sống trong các giới chúng sanh có nhiều bạn lành và địa vị mình được nhiều người nâng nhắc.

          5-Miệng lưỡi thường thơm sạch, ngôn ngữ siêu thắng chuyển hóa được nhiều người hướng thiện

          H-Kết luận:

          Tóm tắt lời nói tà ngữ là một tội ác to lớn nhưng khi hành được Chánh ngữ thì không còn bị quả báo về khẩu nghiệp, thường nói lời lợi lạc cho mọi người và đường về Cực lạc, Niết Bàn không còn bị chướng ngại.

 

CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

          LỤC TRẦN: (Xem CT chữ Lục trần mục Chánh Tinh tấn).

          NGHIỆP CHƯỚNG: (Xem CT chữ Nghiệp chướng bài “Luận về Tam nghiệp”).

          ĐỨC HẠNH: Đức là tâm lành, từ bi và bình đẳng; Hạnh là nết tốt, cử chỉ đoan trang lễ phép. Đức Thầy dạy:

                   “Rán giữ gìn luân lý tam cang,                  

                   Tròn đức hạnh mới là báu quí”.

 

CÂU HỎI

          1/-Hãy định nghĩa Chánh ngữ và Tà ngữ ?

          2/-Lý do nào sanh ra Tà ngữ ?

          3/-Hành trạng tà ngữ ra sao ?

          4/-Người nói không chánh ngữ có tai hại gì ?

          5/-Muốn được chánh ngữ ta phải làm sao ?

          6/-Lợi ích khi được Chánh ngữ như thế nào ?

          7/-Tóm kết khi hành chánh ngữ ra sao ?

*

*    *

VII- ĐẠO ĐỀ : CHÁNH NIỆM

 

CHÁNH VĂN

          CHÁNH-NIỆM.- Ghi nhớ sự chân chánh.

          Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng ... Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí não phụng sự cho nó. Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quý ... được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.

          Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm than hoạn-họa, hãy rán tưởng niệm phương pháp hành Đạo, bỏ các điều phù phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác-thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc động các mối dục tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.

 

LƯỢC GIẢI

          A-Định nghĩa:

          -Chánh niệm là ghi nhớ các việc chân chánh tốt lành.

          -Tà niệm là ghi nhớ những điều tà vạy nhơ xấu.

          B-Nguyên nhân sanh Tà niệm:

          Nguyên nhân sanh tà niệm là bởi thất tình, lục dục sai khiến, làm cho con người dồn hết tâm cơ, trí não phụng sự cho nó.

          C-Hành trạng Tà niệm:

          Trong lòng ghi nhớ mãi những việc: danh, lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí…và các điều còn mất, có không, thành bại, thương ghét không phút nào yên tịnh.

          D-Tai hại Tà niệm:

          Những ghi nhớ sai lầm nói trên, chẳng những làm cho trí huệ mờ đục mà còn khiến con người mãi lăn lộn trong 6 nẻo luân hồi, không thoát khỏi vòng sanh tử. Đức Thầy từng bảo:

                 “Nay cõi tạm sông sầu bể khổ,

                   Làng ngựa xe cám dỗ tao nhân.

                     Gây ra lắm nợ phong trần,

               Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

          E-Hành Chánh niệm:

          Để thi hành được Chánh niệm, hầu thoát khỏi vòng luân hồi thống khổ, hành giả cần trì hành các phương pháp như sau:

          1-Luôn tưởng niệm những phương pháp hành đạo, như:“Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới để độ Tham, Sân, Si”; hoặc niệm Phật  để trừ vọng niệm chúng sanh…Và xả bỏ sự tưởng nhớ các điều phù phiếm xa hoa.

          2-Luôn nhớ nghĩ đến thân tứ đại giả hợp không bền chắc, sớm muộn gì cũng tan rã và mọi vật chất tiền tài, sự nghiệp, đến xác thân ta đều là phù hoa ảo ảnh. Tất cả phải bị chi phối bởi định luật “hữu hình tắc hoại”. Đức  Thầy luôm nhắc nhở:

                   Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,

                   Vật ở trần như bọt nước làn mây.

                   Thân ta còn rày đó mai đây,

                   Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.

          G-LỢI ÍCH CHÁNH NIỆM:

          Hành giả khi tu được Chánh niệm tất đặng những điều lợi ích đáng kể:

          1-Lúc nào cũng làm chủ thân tâm và thắng phục các thị dục, vô minh phiền não tiêu vong.

          2-Đối với mọi trần cảnh không còn xúc động, tâm luôn được an nhiên tự tại.

          3-Dứt được cuộc đời lầm than khổ lụy.

          4-Tâm hạnh phước trí ngày càng vượng lớn, khiến ai cũng kính nghe.

          K-Kết luận:

          Tóm lại, người tu hành khi được Chánh niệm, tức đặng giại thoát sanh tử luân hồi và sớm thành quả chánh giác

CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

          THẤT TÌNH: Bảy cái tình trong tâm tưởng con người, tức là:“Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục”. Có nghĩa: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn. Bảy cái tình ấy ví như bảy con ma, hay xúi người làm quấy. Đức Thầy hằng khuyên:“Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung”.

          LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn của vọng tâm đối với sáu trần cảnh là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Lục dục cũng gọi là: sắc trang, tài lợi, danh vị, tư vị, hư vọng, tật đố. Nó ví như sáu con ma hay khơi gợi người đam mê ưa thích làm điều xằng bậy. Đức Thầy răn dạy:

                   Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm”.

          TÂM CƠ: Cơ mưu riêng trong lòng.

          TRÍ NÃO: Trí óc. Nói riêng về sự hiểu biết, suy tính.

          SÁU ĐƯỜNG: Nghĩa của chữ “Lục đạo”. Cũng gọi là 6 nẻo luân hồi, gồm có: cõi Trời, cõi người, cõi Thần, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Đức Thầy có câu:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

          PHÙ PHIẾM: Bâng quơ, không thiết thực.

          XÚC ĐỘNG: Động lòng, mủi lòng, cảm động nhiều.

          LỤY KHỔ: Tai hại khổ sở.

 

CÂU HỎI

          1/-Định nghĩa chữ Chánh niệm và Tà niệm ?

          2/-Nguyên nhân nào sanh tà niệm ?

          3/-Hành trạng của tà niệm ra sao ?

          4/-Người còn tà niệm có tai hại gì ?

          5/-Muốn được chánh niệm phải làm sao ?

          6/-Hành chánh niệm đặng lợi ích gì ?

          7/-Giải nghĩa chữ thất tình và lục dục ?

          8/-Đức Thầy bảo hãy tưởng niệm phương pháp hành Đạo, nên kể một vài phương pháp chứng minh ?

*

*    *

VIII- ĐẠO ĐỀ : CHÁNH ĐỊNH

 

CHÁNH VĂN

          CHÁNH-ĐỊNH.-  Suy gẫm chơn-chánh.

          Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên ... nghĩa là những ý-định hoàn toàn nhỏ nhen, thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái Sanh, cái Bịnh, cái Lão, cái Tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác ... rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bả lợi danh, mùi phú quý, đi theo những vặt-vụn, tiểu ti, eo-hẹp.

          Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền-định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta dùng sự Chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-thoát.

 

LƯỢC GIẢI

          A-Định nghĩa:

          -Chánh định cũng như chữ Thiền định. Có nghĩa để tâm yên lặng, quán xét, suy tầm việc Đạo lý mầu nhiệm một cách rõ ràng. Có diệu năng đối trị Tà định.

          -Tà định là dự suy gẫm tà vạy, xấu ác, sai lầm.

          B-Nguyên nhân sanh Tà định:

          Do lòng tham lam ích kỷ, con người mãi mê đắm theo mọi sự dục lạc trong trần.

          C-Hành trạng Tà định:

          Người chưa hiểu Đạo có những ý định sai lầm như sau:

          1-Ý định làm sao cho mình được cao sang sung sướng thêm lên và sáng biết mọi việc nhỏ nhen thấp thỏi.

          2-Không nhận được cuộc đời là giả tạm, nay đổi mai dời:

                   Chữ phù vân phú quí nay mai,

                   Luân với chuyển dời qua đổi lại”.( ĐT)

          Hay là:“Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần”.( ĐT)

          3-Không nhận được xác thân vô thường, nó phải đi theo định luật: sanh, già, bịnh, chết. Cả nhơn loại chúng sanh không một ai thoát khỏi.

          D-Tai hại Tà định:

          1-Do xét định sai lầm ấy, khiến tâm trí con người cuống cuồng theo bả lợi danh, mùi phú quí:“Mê man danh lợi cõi hồng trần”.( ĐT)

          2-Lo gây tạo ác nhiệp rồi vương mang những vật tiểu ti eo hẹp, nên phải lăn lộn trong bánh xe luân hồi thống khổ. Đức Thầy đã bảo:

                   “Bá tánh say sưa mùi phú quí,

                   Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao”.

          E-Hành Chánh định:

          Muốn tránh các điều khổ nói trên, hành giả phải suy gẫm, quán xét những điều sau đây:

          1-Suy gẫm ngoài kiếp phù du của trần thế, còn có các cõi khác bất di bất dịch, vĩnh viễn trường tồn, như: Niết Bàn, Cực lạc. Cõi ấy con người chẳng còn buồn khổ hay quả báo luân hồi:

                   “Tội tiêu phước hưởng trường tồn,

                Không còn mắc nẻo dại khôn luân hồi”.( ĐT)

          2-Dùng thiền định phá tan màn vô minh, phiền não và các làn sóng thị dục, để lòng được an nhiên, thanh tịnh. Đức Thầy từng dạy:

                   Mục Chánh định thật là rất khó,

                   Giữ tấm lòng bất động như như.

                   Cho hồn linh yên lặng an cư,

                   Thì mới được huờn nguyên phản bổn”.

          G-Lợi ích hành Chánh định:

          Nhà tu khi trì hành được Chánh định theo các điểm vừa kể trên, tất đặng những điều cao quí:

          1-Bên trong chẳng còn xao động, các tập nghiệp phiền não tiêu tan, trí tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, dứt tuyệt sự mê lầm (vô minh hoặc):“Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật”..( ĐT)

          2-Bên ngoài thì không hề duyên nhiễm theo các trần cảnh. Tuy sống chung với mọi người và cũng làm các việc giúp đời độ chúng, nhưng không một cảnh vật nào chi phối được mình. Tâm trí lúc nào cũng như như bất động, tự tại giải thoát:“Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)

          H-Kết luận:

          Tóm tắt khi hành giả tu được Chánh định thì tà định tiêu tan trong tức khắc. Bấy giờ trí ta chẳng còn loạn động vì phiền não, như: kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc và trần sa hoặc. Lúc nào tâm ta cũng thanh tịnh sáng suốt, thấy biết phân tách vạn pháp một cách rõ ràng, như thấy chỉ trong lòng bàn tay và chứng đại định Niết Bàn.

 

TỔNG KẾT

          Đại khái Bát Chánh Đạo là Đạo Đề. Chẳng những một trong Tứ Diệu Đề mà còn là Tám pháp Đạo phần, trong 37 phẩm trợ Đạo. Nó có diệu năng đối trị Bát tà và nhổ tận gốc nghiệp duyên phiền não, tức là tập nghiệp vô minh. Đây là pháp tu căn bản duy nhứt để thành quả Tam thừa và Phật thừa.

          Là một môn đồ nhà Phật, đã quyết chí tu hành để giải thoát cho mình và cả vạn loại, ta há chẳng lấy đây làm Kinh nhật tụng để hành trì ư ?

 

CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

          LẠC LUÂN: Lưu lạc rày đây mai đó, hoặc lên xuống theo bánh xe luân hồi.

          PHÙ VÂN: Mây nổi. Ý chỉ cái gì không bền chắc, thấy đó rồi mất đó. Đức Thầy có câu:“Một cuộc phù vân có mấy hơi”. Hay:

                   “Cuộc phù vân phú quí nay mai,

                    Luân với chuyển dời qua đổi lại”.

          PHÙ DU: Một thứ côn trùng nhỏ như chuồn chuồn bay trên mặt nước. Tối lại, thấy ánh sáng của bóng đèn bay quanh theo, rồi bị lửa nóng chết. Ý nói kiếp sống con người quá ngắn ngủi, dù có tham luyến vật chất tiền tài cũng chẳng hưởng lâu bền mà lại phải chết vì nó. Đức Thầy đã nói:

                   Con phù du hẫng hờ nào biết,

                   Thấy bóng đèn thì quyết chun vô.

                   Thảm thương thay chết héo chết khô,

                   Nhìn đèn nọ thấy mồ phù dũ.

                   Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,

                   Đeo danh lợi như con vật ấy”.

          BẢ LỢI DANH: Bả là đồ ăn có tẩm thuốc độc. Ý nói ai tham danh lợi như người tự uống thuốc độc mà chết.

          MÙI PHÚ QUÍ: Cũng viết là mồi phú quí. Ý nói sự phú quí vinh hoa như miếng mồi có mùi thơm, tức có lưỡi câu trong đó, ai tham phú quí như cá tham mồi thì phải mắc câu, tất có hại.

          KHÔNG DI KHÔNG DỊCH: Chẳng dời chẳng đổi. Chỉ cho cái gì còn hoài không mất. Đây chỉ cho cảnh Niết Bàn.

          U MINH: Tối tăm mù mịt, cũng gọi là vô minh.

          PHIỀN NÃO: Hán học giải là buồn rầu, lo sợ, sân si. Phật học giải là cái vọng niệm tà quấy sai lầm. Phiền não kể ra có vô lượng, nhưng tóm tắt lại gồm có ba món căn bản, là:“Tham, Sân, Si”, nó có thể nảy sanh muôn ngàn trần lao phiền não khác. Trong bài “Các câu chú thường niệm” Đức Thầy có dịch:

                    Nghe chuông phiền não tiêu tan,

                     Bồ đề tâm mở trí toan huệ mầu”.

 

CÂU HỎI

          1/-Hãy định nghĩa Chánh định và Tà định ?

          2/-Lý do nào sanh tà định ?

          3/-Hành trạng tà định ra sao ?

          4/-Người sống theo tà định có tai hại gì ?

          5/-Muốn được chánh định ta phải làm sao ?

          6/-Hành chánh định đặng lợi ích gì ?

          7/-Tóm tắt ai tu được Chánh định tâm trí như thế nào ?

          8/-Hãy cho biết tổng kết phần Đạo Đề ?

*

*    *

IV- TỨ DIỆU ĐỀ : DIỆT ĐỀ

          Vừa qua chúng ta đã tu học phần Đạo Đề, để diệt trừ tận gốc tập nghiệp vô minh phiền não. Giờ đây, chúng ta học đến Diệt Đề, tức là phần chứng diệt. Thể theo ý Đức Thầy thì Diệt Đề là “Môn Hoàn Diệt”, trong đây gồm có hai phần: Phương pháp diệt khổ và hưởng quả Niết Bàn.

CHÁNH VĂN

 

MÔN HOÀN DIỆT

          Nếu ta tìm con đường Bát Chánh Đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh-tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn-giận, chẳng dạ ghét-ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền-não và để bụng tham-lam ích-kỷ, gây mối thiện-duyên, lần lần trí-huệ mở-mang, cõi lòng sáng-suốt, thì màn vô-minh sẽ bị diệt mất.

 

          Vô-minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh-sắc diệt; danh-sắc diệt thì lục-nhập diệt; lục-nhập diệt thì xúc-động diệt; xúc-động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo-thủ diệt; bảo-thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tử diệt. Ấy là giải-thoát vậy

                             Bạcliêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)

 

LƯỢC GIẢI

 

A-PHƯƠNG PHÁP DIỆT KHỔ

          Trong các phương pháp diệt khổ, Đức Thầy dạy môn đồ phải:“Nương theo con đường Bát Chánh Đạo”, tức là Đạo Đề mà tiến hành. Bởi trong Bát Chánh Đạo gồm có ba phần: phần Chánh Nghiệp trừ các tập nhân về thân. Phần Chánh Ngữ diệt được các tập nhân về Khẩu. Còn lại 6 Chánh là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh tấn, Chánh Mạng, Chánh Nệm và Chánh Định diệt sạch vô minh phiền não.

          Tuy nhiên, qua phần Diệt Đề, Đức Thầy cũng dạy thêm một ít phương thức để hộ trợ hành giả tiến lên đường tự giác, giác tha của Bồ Tát và Phật.

          1-Giữ tâm thanh tịnh:

          Bởi biển tâm của mỗi chúng sanh lúc nào cũng có các làn sóng phiền não dấy lên làm mờ đục trí huệ, do 6 ngọn gió trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, hoặc 8 luồng gió “Bát phong” làm dao động: “Gió bát phong chao ngọn đèn tâm”.(Bát phong gồm có: Lợi (lợi lộc),Suy (bị thua thiếu), Hủy (danh thơm), Dự (tiếng xấu), Xưng (ca ngợi), Cơ (chê bai), Khổ (khổ nạn),Lạc (yên vui)) Giờ đây ta phải dùng sức tự lc làm chủ tâm mình và thi hành Chánh Mạng, Chánh Niệm và Chánh Định... Đồng thời quán xét các trần cảnh như phù hoa ảo ảnh, như trò huyễn thuật, không thật có, đ tâm mình:“Chẳng luyến trần ảo ảnh gạt lường”( ĐT). Đặng vậy, tâm ta chẳng còn duyên nhiễm theo trần cảnh, lúc nào cũng vẫn bình tịnh sáng suốt. Ấy gọi là tự giác.

          2-Làm việc nhơn từ:

          Khi tâm hành giả được thanh tịnh, sáng suốt thì đối với các trần cảnh lòng luôn được an nhiên tự tại, như hoa sen “cư trần bất nhiễm”. Giờ đây ta phải mở lòng từ bi, thương xót muôn loài vạn vật còn đang ngụp lặn trong bể trần thống khổ, nên dùng phương tiện giúp đỡ từ tinh thần lẫn vật chất, khiến họ được an vui hạnh phúc và biết được Đạo lý tu hành, hầu tiến sang bờ giải thoát. Ấy là phần giác tha.

          3-Không lòng hờn giận chẳng dạ ghét ganh:

          Lòng hờn giận và đố kỵ ghét ganh là hai món phiền não khó trừ, diệt hết phần thô lại còn phần vi tế và tập khí, nó ăn sâu trong tạng thức của mỗi người, hành giả khó nhận ra. Ở đời người ta ganh tị thù ghét những người hà hiếp, quấy phạm với mình là thường. Nơi đây Đức Thầy muốn chỉ cái tánh hay ganh hiền ghét ngõ, đố kỵ thù hằn đối với các bậc tài đức hơn mình mà xưa nay, từ trường đời đến cửa Đạo đều có xảy ra.

          -Trường đời thì nịnh ghét trung, tiểu nhân hiềm tị quân tử. Như: Tần Thỉ Hoàng oán ghét hàng Khanh Sĩ, Châu Do danh tị Khổng Minh, Bàn Quyên tị hiềm Tôn Tẩn...

          -Cửa Đạo thì tà ghét chánh, hung ác ghét hiền nhơn. Như: Đạo chích tị hiềm Khổng Tử, vợ vua Lương Võ Đế đố kỵ Hoà Thượng chí công; Đề Bà Đạt Đa ganh hiền Đức Phật và chúng tăng. Đức Thầy đã phô diễn:

                   Thấy chúng sanh ghét ngõ ganh hiền,

                   Theo chế nhạo những người tu tỉnh”.

          Và:

                   “Ra đời chẳng nệ công lao,

           Chẳng hờn, không giận, hùng hào còn ganh”.

          Cho nên Ngài dạy môn đồ muốn tiến lên đường giải thoát, cần phải:“Không lòng hờn giận chẳng dạ ghét ganh”.

          4-Chuyên tâm niệm Phật giúp thế độ đời:

          -Đoạn nầy Đức Thầy dạy người tu vừa tự giác và vừa giác tha. Chuyên tâm đồng nghĩa với chữ nhứt tâm. Nghĩa là chỉ một lòng tưởng Phật, nhớ Phật để trở về với tánh giác ngộ, không để một vọng tưởng nào xen tạp. Niệm như vậy cho đến khi vô minh vọng hoc tan hết, tức huệ nhựt hiện bày và tâm hành giả được hòa vào Bản lai thanh tịnh. Vào thời mạt pháp chúng ta muốn chuyển hoá vô minh phiền não trở thành thanh tịnh Niết Bàn, chỉ có pháp “chuyên tâm niệm Phật” là giản tiện hơn hết.

          -Đồng thời với sự chuyên tâm niệm Phật (tự giác) nhà tu cần thực hiện lòng từ bi, giác chúng độ đi (giác tha) để hoàn thành hạnh đại thừa của Bồ Tát và tối thượng thừa của Phật.

          5-Đừng chứa điều phiền não và để bụng tham lam ích kỷ:

          Tới đây, Đức Thầy nhắc lại ba món phiền não căn bản: Tham, sân, si, nó đã ăn sâu trong tâm thức của mỗi người, từ vô thỉ tới giờ. Nhà tu diệt hết phần thô và phần vi tế, lại còn phần tập khí. Bởi nó không có hình tướng, chỉ thoáng qua như hơi gió, xuất hiện bất ngờ nên khó trừ. Chính nó là đầu mối, là căn bản (vô minh). Cho nên đồng thời với các phương pháp vừa kể qua, hành giả cần gom hết năng lực trí tuệ của mình, chiếu phá tận gốc rễ của nó để đạt đến Niết Bàn giải thoát.

          6-Hoàn diệt:

          Theo Đức Thầy dạy, khi hành giả nhổ tận gốc:  tham, sân, si (vô minh) thì hành đắc thất và thức nhân ngã cũng tiêu vong. Hễ cái tâm thức hiểu biết phân biệt không còn thì danh sắc chẳng do đâu mà sanh được. Danh sắc đã không có (không sanh) thì đâu có 6 căn để duyên nhiễm theo sáu trần (lục dục) mà sanh ra xúc động. Khi xúc động đã hết thì thọ cũng mất luôn và đâu có sự vật nào để thương yêu luyến ái mà bảo thủ. Khi lòng đã buông xả không còn bảo thủ thì đâu còn chấp tâm hay chấp pháp mà gọi rằng có (hữu). Đã không có hữu thì đâu còn sanh ra con người ở cõi trần để bị định luật sanh, già, bịnh, chết chi phối.

          Hành Đạo đến đây nhà tu hoàn toàn giải thoát mà vào cảnh “Thanh tịnh Niết Bàn”

               Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)

B-HƯỞNG QUẢ NIẾT BÀN

          Đây là lối về tới đích, là cứu cánh của người tu Phật:

                   “Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,

                   Về chốn ni xa lánh hồng trần”.( ĐT)

          Như đã hiểu rõ Niết Bàn là nơi cứu cánh giải thoát, là diệt khổ, là viên tịch; cũng gọi là bất sanh bất diệt và pháp thân thường trụ...Song bất biến mà cũng tùy duyên và tùy duyên mà bất biết, lúc nào cũng tự tại vô ngại.

          Giờ đây chúng ta cần khảo xét cho chín chắn để chúng ta có một chánh tín và vững tiến. Tuy nhiên cũng tùy theo tâm đức và công năng tu tập của mỗi hành giả mà sự chứng đắc Niết Bàn có rộng hẹp và thứ bậc khác nhau:

          1-Niết Bàn của THINH VĂN và DUYÊN GIÁC:

          a)-Theo Kinh xưa, hành giả tu chứng tứ thông hoặc Bát thông Thiền định. (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền gọi là Tứ thông Thiền định. Thêm bốn bực nữa: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi phi tưởng gọi là Bát thông Thiền định). Trừ hết ngã chấp được chứng 3 quả Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm, nhưng vi tế và tập khí phiền não còn sót lại nên còn quả báo năm ba kiếp nữa. Song nhờ ngã chấp chẳng còn, nên dầu ở trong sanh tử vẫn không bị ràng buộc như chúng sanh thường. Thế gọi là chứng quả “Hữu dư y Niết Bàn”.

          b)-Khi nhà tu trì hành 37 phẩm trợ Đạo, được chứng quả A La Hán, các phiền não và câu sanh ngã chấp không còn. Ấy là hoàn toàn giải thoát ra khỏi sanh tử luân hồi, tâm luôn được tự tại ngoài vòng Tam giới, nên gọi là “Vô Dư y Niết Bàn”.

          2-Niết Bàn của Bồ Tát và Phật:

          Trong hàng Thinh Văn và Duyên Giác đạt đến chỗ Vô Dư Y Niết Bàn, tuy đã đoạn hết phiền não phần thô và vi tế, nhưng phần tập khí vẫn còn phưởng phất đôi chút, công đức, trí huệ chưa viên mãn, bởi tâm lượng độ tha chưa sâu rộng. Tu tới đây chỉ chứng Tiểu thừa của hàng Thinh văn, Duyên Giác mà thôi. Cho nên hành giả phải tu lên Đại thừa của Bồ Tát và tối Thượng Thừa của Phật. Trong Niết Bàn Đại thừa cũng chia làm hai phần:

          A-VÔ TRỤ XỨ NIẾT BÀN:

          Chỉ cho các hàng Bồ Tát tu “Lục độ vạn hạnh” và “Tứ vô lượng tâm”. (-Lục độ: Bố thí, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. -Tứ vô luợng tâm: Điạ từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả) Đã thấu rõ “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” pháp tánh bình đẳng như như, không có gì là chắc thật cố định. Các Ngài đã chứng được tự tánh bình đẳng hòa quan đồng trần, giáo hóa chúng sanh. Tuy thi hành công tác độ tha mà vẫn ở trong chánh quán và tâm vô trụ. Bồ Tát xem vạn pháp như huyễn, cho đến sanh tử hay Niết Bàn cũng không thật, nên tâm các Ngài không dính mắc vào chỗ nào:“ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.(Kinh Kim Cang)

            Do đó hàng Bồ Tát luôn vào trong sanh tử, dùng “Tứ nhiếp pháp” (là Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự nhiếp hóa) giáo hóa chúng sanh mà tâm vẫn ở trong Niết Bàn tự tánh, như trường hợp Đức Lục Tổ Huệ Năng, Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo Chủ hiện nay...các Ngài đã “Siêu phàm nhập phàm”.

          B-TÁNH TỊNH NIẾT BÀN: 

          Đây là chỉ cái thể vắng lặng mà diệu mầu, tuy sáng suốt linh hoạt mà vẫn thanh tịnh an nhiên “Chơn không mà diệu hữu”. Đức Thầy dạy môn đồ tu đạt đến chỗ nầy “Hãy tìm kiếm cái không mới có”. Đây cũng gọi là Phật tánh, là chơn tâm hoặc Bản lai thanh tịnh hay Như Lai Tạng...

          Hành giả tu đạt đến:“Tự tánh thanh tịnh Niết Bàn” sẽ thành Phật (Giác hạnh Viên mãn). Và có đủ bốn đức: Thường, Lạc, Ngũ, Tịnh.

          3-Bốn Đức Niết Bàn:

          a)-Chơn thường: là bản tánh thường hằng chơn thật, không bị chi phối bởi luật vô thường của thế gian.

          b)-Chơn lạc: là cái vui chơn thật, vì tâm không còn buồn khổ, lo sợ như các giới chúng sanh ở thế gian, nên tạm gọi là vui, chớ không phải cái vui tầm thường ích kỷ.

          c)-Chơn ngã: Đây là cái tâm bình đẳng xem vạn vật đồng nhất thể, tức là hoà vào cái đại ngã. Lúc nào cũng bình đẳng an nhiên, tự tại vô ngại, không còn bị nội tâm hay ngoại cảnh sai sử phân biệt.

          d)-Chơn tinh: là tâm hoàn toàn trong lặng sáng mầu, như mặt nước hồ thu hay Đài Nguyệt Kiến, không còn một tập khí nhiễm ô nào cả:

               “Tâm sáng suốt như Đài Nguyệt Kiến,

                Tánh trong như nước bích mùa Xuân”.( ĐT)

          4-Nhận Định:

          Theo Đức Giáo Chủ PGHH, hiện nay thì ý nghĩa của chữ Niết Bàn và cấp bực cũng như các Kinh luận giải từ trước. Nhưng về phương tiện hành đạo thì có giản dị hơn, để rộng độ các tầng lớp chúng sanh tiện bề học hỏi và trì hành.

          Qua yếu chỉ của Đức Thầy hướng dẫn, tuy hầu hết tín đồ PGHH chỉ mang hình thức Cư sĩ, nhưng phần nội tâm vẫn được tu công hạnh Bồ Tát Đạo để ra khỏi sanh tử và tiến tới Niết Bàn. Chứng cứ là trong đường lối “Học Phật Tu Nhân” Ngài đã đề vạch. Khi hành giả vừa bước đầu (tu nhân), Ngài đã rút ngay Phẩm Báo Tứ Ân, trong Kinh Đại Thừa Tâm Địa Quán” để dạy tín đồ:“Thượng báo tứ trọng Ân, hạ tế tam đồ khổ”. Đồng thời phải tiêu diệt mầm móng sanh tử là tránh Tam Nghiệp, chừa Thập ác để được trọn lành, trọn sáng.

          Kế đó, phải tiến lên phần tu Phật là phải thi hành công hạnh tự giác, giác tha bằng cách hành trì Bát Chánh Đạo để cải thiện hành động, ngôn ngữ, tư tưởng cho mình và cho người, được toàn hảo toàn hòa, an vui hạnh phúc, như Ngài đã dạy:“Bát Chánh Đạo là quyển Kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ tấn triển trên đường giải”. Chính đó là Đạo Đề.

          Vì thế trong phần Diệt Đề (Môn Hoàn Diệt) Đức Thầy dạy:“Nếu ta tìm con đường Bát Chánh Đạo của Phật mà đi” tất sẽ được hưởng quả Niết Bàn, Song tùy theo tâm đức và công năng giới hạnh của mỗi nhà tu mà sự chứng đắc Niết Bàn có nhiều bực, như từ trước.

          5-Khảo Xét:

          Khảo xét sâu vào Bát Chánh Đạo, tức Đạo Đề, thấy rằng: Nếu ai hành đặng Chánh Nghiệp, Chánh Ngữ, Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, sẽ phá được kiết sử và kiến hoặc, tư hoặc; tức là 10 món phiền não căn bản thì chứng quả Niết Bàn của hàng Thinh Văn và Duyên Giác.

          Còn ai tu đạt thành luôn bốn chánh: Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niệm và Chánh Định tất đoạn được trần sa hoặc và vô minh hoặc thì đặng Niết Bàn của Bồ Tát và Phật. Vì Đức Thầy đã từng dạy:“Thiền Định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn”. Hoặc là:

                   “Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật,

                   Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.

          III-KẾT ĐỀ:

          1-Tóm tắt:

          Nói tóm lại nhà tu muốn chứng diệt (Diệt Đề) cần phải hành trì Đạo Đề, tức Bát Chánh Đạo. Tuy nhiên cũng tùy theo công hạnh rộng hẹp, tâm đức cạn sâu của mỗi hành giả mà hưởng quả Niết Bàn của hàng Thinh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát và Phật. Song bực nào cũng được giải thoát sanh tử bình đẳng như nhau.

          2-Tổng Kết:

          Tổng kết bài Sơ giải Tứ Diệu  Đề, Đức Thầy dạy môn đồ, trước nhất phải tự kiểm nhận cho rõ kiếp sống khổ của chính mình và toàn thể chúng sanh đang gánh chịu, qua tám nỗi khổ. Chẳng những chịu các nỗi khổ của thân lẫn tâm, còn phải đương đầu với bao cảnh khổ bên ngoài đưa đến, bởi do cộng nghiệp hay biệt nghiệp của mỗi chúng sanh hay nhiều chúng sanh tạo ra.

          -Kế tiếp chúng ta muốn tránh các nỗi khổ đó cần phải quán xét tận gốc rễ của nó từ đâu sanh ra. Cho nên phần Tập Đề giúp chúng ta thấy rõ gốc khổ là do vô minh phiền não đã huân tập, kết cấu từ vô thỉ, đó là 12 duyên sanh mà vô minh là đứng đầu. Nó trói trăn chúng ta trong luân hồi sanh tử, từ vô lượng kiếp đến nay.

          -Giờ đây, chúng ta muốn diệt tận gốc nó phải tu Đạo Đề, tức Bát Chánh Đạo. Trì hành Bát Chánh Đạo xong, tức vô minh phiền não tan biến và bẻ gãy 12 duyên sanh mà thành đạt mục đích. Ấy gọi là chứng diệt.

          ến phần Diệt Đề phân tách cho chúng ta thấy rằng: trong lúc thực hành phương pháp giải khổ cũng tùy theo công năng, tâm đức của mỗi hành giả sâu rộng hay vừa chừng mà chứng Niết Bàn tương xứng.

          Đã là bốn chơn lý bất diệt, là 4 pháp mầu nhiệm vô biên, người tu Phật dẫu từ ngàn xưa hay hiện nay, cho đến ngàn sau, ai ai cũng phải công nhận và trì hành. Bởi Tứ Diệu Đề là phương tiện duy nhứt, có diệu năng đưa hành giả dù hạng nào: Xuất gia hay Cư sĩ, nếu ai thi hành được cũng đều đạt quả Tam thừa và Chánh giác như nhau.

 

CHÚ THÍCH (Bài Môn Hoàn Diệt)

          DIỆT ĐỀ: Một trong Tứ Diệu Đề, cũng gọi là Diệt Đế, là chứng Diệt hay nhập Diệt. Có nghĩa diệt dứt phiền não vào Niết Bàn. Ý nói sau khi hành Đạo Đề xong thì vô minh phiền não chẳng còn, hành giả được hoàn toàn giải thoát sanh tử mà nhập Niết Bàn:

                   Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,

                   Về chốn ni xa lánh hồng trần”.( ĐT)

          (Lưu ý chữ Diệt ở đây khác nghĩa với chữ Diệt Đề trong quyển Giác Mê Tâm Kệ (1939). Và các từ ngữ trong Môn Hoàn Diệt đã có giải trong phần lược ý).

 

CÂU HỎI

          1/-Diệt Đề là gì, và trong đây có mấy phần chính ?

          2/-Trong phương pháp diệt khổ, Đức Thầy dạy như thế nào ?

          3/-Muốn giữ tâm thanh tịnh ta phải làm sao ?

          4/-Làm những gì gọi là làm việc nhơn từ ?

          5/-Lòng hờn giận, ghét ganh ra sao ?

          6/-Phiền não là gì, tai hại ra sao mà Đúc Thầy bảo đừng chứa ?

          7/-Giải rõ về cách Hoàn Diệt ?

          8/-Quả Niết Bàn là gì mà người tu cần đạt đến ?

          9/-Niết Bàn của Thinh Văn Duyên Giác ra sao ?

          10/-Sao gọi là Hữu dư y Niết Bàn ?

          11/-Vô dư y Niết Bàn ra sao ?

        12/-Cho biết Niết Bàn Đại Thừa của Bồ Tát và Phật ?

          13/-Tu như thế nào mới nhập Vô trụ xứ Niết Bàn ?

          14/-Tánh tịnh Niết Bàn ra sao ?

          15/-Thế nào gọi là 4 đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh ?

        16/-Diệt Đề theo Đức Thầy dạy, ta nhận định ra sao ?

          17-Khảo xét về tu Bát Chánh Đạo như thế nào ?

          18/-Tóm tắt mục Diệt Đề ra sao ?

          19/-Cho biết Tổng kết bài Sơ giải Tứ Diệu Đề ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn