Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 12

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 41819)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 12

ĐẾN LÀNG NHƠN-NGHĨA (Cần-Thơ)

Vui mừng gặp chốn hiền lương,
Dốc lòng mở cửa Phật-đường độ dân.
Làng Nhơn-Nghĩa để chân đến chốn,
Thấy dương-trần trà-trộn tà tâm.
Oai Thần đem đạo huyền thâm,
Nhiệm-mầu phổ-độ âm-thầm ai hay.
Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn,
Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng nhau.
Lê-dân trămhọ xáo-xào,
Rã-rởi phụ tử, máu đào nhuộm tuôn.
Thương quá sức bắt cuồng tâm não,
Quyết cứu người dùng đạo phổ thông.
Ước-mơ dhoc được đại-đồng,
Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng thảnh-thơi,
Nhìn vạn vật cuộc đời ngao-ngán,
Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây.
Vẽ hình rồi lại vẽ mây,
Vẽ tranh Thiên tạo Bồng-Lai cảnh tình.
Lại thêm vẽ phù sanh cõi tạm,
Dắt hồn người hắc ám khỏi mang.
Cầu cho cuối xóm cùng làng,
Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng yên thân.

THI

Luân-thường nặng nợ phải vai mang,
Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng.
Cớ-gắng tâm trì theo đến chốn,
Một ngày vinh-diệu ắt bằng an.

Bằng an bốn biển khỏi đua tranh,
Bởi khắp bá gia được chí lành.
Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ,
Về nơi Tiên cảnh mới nhàn thanh.

Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
Phật cũ này xưa hãy rán tầm.
Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ,
Non Thần biến đổi hết rừng lâm.

Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài.
Chờ đợi co hiền noi tục cổ,
Tới thời thượng-cổ điểu hòa mai.

Võ-võ đêm thanh nức giọng vàng,
Kiểng cây sum MẬU đượm nùi nhang.
Phù dung rã gánh thân yên nhã,
THẠNH thới gia trung gặp chũ nhàn.

Chử nhàn vô sự mới nên Tiên,
Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền.
Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi,
Lánh đời tực lụy rút tiền khiên.

Tiền khiên kiếp tạo bởi trần thân,
Đạo diệu giồi-trau lập chí cần.
Luyệnt tánh, trau tâm cho sạch-sẽ,
Rứt rồi nợ thế khỏi ưu-phiền.

Ư-phiền thường sự chốn ta-bà,
Phật cảnh mau về ắt lánh xa.
Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
Phủi trầnt tìm kiếm chữ ma-ha.

Ma-ha mùi ngọt mật cùng đa!
Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà.
Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo,
Nào khờn dạ ái của thiền-gia.

Thiền-gia chí cả dốc hành thân,
Diêu diệu truyền thi cảm kích thần.
Những tưởng thói đời ôi chát lạt!
Đạo mầu siêu-việt của thiền lâm.

Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
Non tuyêt rèn ra bát chánh kìa.
Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
Hoàn-cầu bốn biển khắp danh bia.

(Mấy bài tứ cú trên đây Đức Thầy trao cho ông Võ-Mậu-Thạnh ở làng Nhơn-Nghĩa).

Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp,
Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa.
Phật, tiền vận chuyển lọc-lừa,
Kiếm con hữu phước mà đưa trở về.
Ôi! khổ thảm bốn bề sóng dậy,
Dòm lừng trời lửa cháy liên-miên.
Tiêu-điều sản-vật điền viên,
Thần-thông biến hóa dưới miền Trung-Ương.
Ngục môn đầy quỉ vô thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật trừng.
Nhìn xa nước mắt rưng rưng,
Thương đời mê muội trầm-luân hoài hoài.
Tay hạ bút viết bài chung cuộc,
Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu.
Thân khùng vận bỉ trớ-trêu,
Phiêu-lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng.
Ai giàu có thung-dung thanh nhã,
Ta lo đời sắt đá bền gan.
Âu sầu nức giọng riêng than,
Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần.

Nhơn-Nghĩa, (Xà No), ngày 29 tháng 4 Canh Thìn

Ông NGUYỄN-THANH-TÂN (đến Xà-No thăm Đức Thầy) xướng:

Cách mấy tuần dư đã vắng lâu,
Mái tây đứng xủ tóc phai màu.
Tin thơ mới đặng thông lời ngọc,
Ngòi bút khôn dằn ứa hột châu.
Khắc lụn bâng-khuâng nơi cửa Khổng,
Canh tàn thỏ-thẻ chốn thang lầu.
Ngàn trùng nước bích xa xuôi đấy,
Cúi kính lời quê gợi mạch sầu.

ĐỨC THẦY họa:

Xuống trần dạy-dỗ cùng đà lâu,
Sẵn dịp lìa quê rải đạo mầu.
Thong-thả trau-tria đời lựa ngọc,
Thảnh-thơi chùi rửa khắp tim châu.
Trung-dung khuyên đó noi gương Khổng,
Hiếu-hanh day con chớ mến lầu.
Tuyệt đích siêu mầu nơi kệ đấy,
Phàm-nhơn sớm vội gác cơn sầu.

Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng:

Đạo-đức bủa ra khắp cõi trần,
Ơn Thầy phổ-hóa nặng ngàn cân.
Ngậm vành mong trả ghi muôn thuở,
Nhả ngọc làm đền nguyện một thân.
Xủ-xếp lũ bàng còn đợi gió,
U-ơ bầy bướm hỡi chờ xuân.
Hội lành rồng gặp cơn mưa móc,
Chi để nho-văn khói lửa Tần.

ĐỨC THẦY họa và cho thêm:

Thương tưởng người mê Lão xuống trần,
Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh-Cân.
Lòng yêu sanh-chúng luân chuyển kiếp,
Dạ ái dương-trần đổi sắc thân.
Lèo-lái sẵn rồi còn ngược gió,
Cánh trương chưa gặp cuộc phù-vân.
Sang hè con cuốc sầu mưa móc,
Đoái thấy đời nay học thói Tần.

Vạn lý trường thành khí khẩu chương,
Thanh phong tiết-hạnh dĩ luân-thường.
Dị nhân tái thế từ-bi thuyết,
Đào tị long xà thoát họa ương.

Dăn lòng lục tự mựa đừng sai,
Qua bể về quê ngõ chuốc hài.
Tiên-cảnh kìa kìa gần lộ vẻ,
Chờ người hữu phước đến liên-đài.

Tỏ lời thăm viếng khắp đâu đâu,
Bổn-đạo từ nay gác mộng sầu.
Vọng bái Thánh Thần đền lộc cả,
Trọng quyền chỉ bảo khắp đâu đâu.

Đâu đâu cũng mến tới mà tu,
Ngàn dậm xa-xuôi biệt tít mù.
Công-cán thăm Thầy không nại khổ,
Việc đời lắm kẻ quá là ngu.

Lập thân hành đạo phải truân chuyên,
Cức thế Thầy đâu mến bạc tiền.
Dặn lòng con hãy bền gan dạ,
Sẵn dịp dân lành rõ Phật Tiên.

Phật Tiên thương hết cả nhơn-sanh,
Tu tỉnh trì tâm đạo rán hành.
Chớ lấy sự sầu gieo não trí,
Để Thầy an ổn dẫn quần sanh.

Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời,
Một bầu nhiệt huyết chẳng xe lơi.
Mến yêu quốc thủy tình đồng chủng,
Phải tính cho xong nỗi cuộc đời.

Xà-No, tháng 6 năm Canh-Thìn

Cho ông chín Diệm tức NGUYỄN KỲ-TRÂN ờ làng Định-Yên (Long-xuyên)

Đường xa ngàn dặm cụ sang thăm,
Nghe đạo huyền-vi cảm-kích thầm.
Cố tưởng ước mơ đời thạnh-trị,
Gạn tầm hoài-vọng điệu xa-xăm.
Nòi giống Lạc-Hồng nay nẩy-nở,
Nam bang vui thú buổi đồng tâm.
Ông ơi, hãy rán tìn chơn-lý,
Khác thể Thần Tiên thấm nhạc âm.

Nhạc âm Châu-Võ cuộc Phong Thần,
Tảo Bắc chin Nam ái nước dân.
Treo sợi xích thẳng chờ vận đến,
Cột dây ngọc-đái đợi người ân,
Thiên-công lắc-lẻo sao lâu quá,
Địa-phủ trớ-trêu lấp mắt trần.
Tong tổ mở-mang nhờ đức cả,
Giống dòng no ấm bớt trần thân.

Đường xa diệu vợi cảm tình ông,
Vayậ mới nở-nang giống Lạc-Hồng.
Noi chí Thánh-Hiền tìm cội cũ,
Theo gương Phật-Tổ thấy non sông.
Hồ thiên ngọc ẩn chờ qui kiểng,
Trì địa kim sơn đến cõi Bồng.
Hãy rán sưu tầm cho rạch lý,
Một ngày hòa hiệp hết còn mong.

Còn mong cho gặp hội Mày Rồng,
Sắp đền bước đường lắm nẻo chông.
Quân tử tùy thời hơi sút bước,
Tiểu nhơn ỷ sức mạnh pha xông.
Khốn thay dân sự người cao thấp,
Đau đớn thân hèn kẻ tiếc công.
Dạ luống ai hoài than-thở chút,
Lòng lo dương-thế bắt cuồng ngông.

Cuồng ngông cửa Phật quá thêm nồng,
Thấy chúng đời nầy những ước mong.
Trời định nhơn tâm qui nhứt thồng,
Đất xoay vật dụng một nền không.
Diệu thâm bát-chánh lời truyền giáo,
Xa thẩm tứ-đề tiếng giục ông.
Bớ hỡi Lạc-Hồng mau lượng xét,
Để chừng phong võ hết chờ trông.

Xà-No, năm Canh-Thìn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn