Phần thứ chín

18 Tháng Năm 200912:00 SA(Xem: 12689)
Phần thứ chín

Hạ Ngươn Tuất Hợi đổi đời,

Ngọc Hoàng hội nghị lập đời Thương Ngươn.

Dương trần đâu rõ nguồn cơn,

Ruộng trâu hao tổn nhơn dân chẳng lành.

Hạ Ngươn như sợi chỉ mành,

Sao không tu niệm tranh giành làm chi ?

Phật Trời Tiên Thánh sầu bi,

Cậy ông Sư Vãi mau đi giáo trần.

Sư Vãi vội vã ân cần,

Đi hết khắp cả cõi trần giáo khuyên.

Thương ông Sư Vãi nhọc nhằn,

Sao thân chẳng biết mấy thân dưới trần.

Hạ Ngươn nhiều kẻ vô nhân,

Chẳng thương Sư Vãi nhiều lần lao đao.

Người còn chẳng luận công lao,

Xả thân vì Đạo rao cho dân tường.

Giáo khuyên khắp hết bốn phương,

Ai nghe thì lại mến thương vô cùng.

Như ai có muốn làm hung,

Thì là ông lại giả Khùng đi xin.

Thân sao thân lại linh đinh,

Già rồi lại cực thân hình biết bao.

Tới đâu cũng thầy hùng hào,

Ít ai kiêng nể ồ ào chê bai.

Lại còn diễu cợt chê cười,

Điên Khùng nào phải Thần Tiên đâu là.

Thấy đời tôi lại xót xa,

Tôi thề hết tiếng cho trần hạ tin.

Thương đời dạy đã hết tình,

Rán mà nghe lấy bàn kinh mà thờ.

Dạy từ chơn tóc mối tơ,

Cớ sao lê thứ làm ngơ không cần.

Dạy cho tu lấy cái thân,

Không phải tôi biểu tu cần cho tôi.

Có tu sao đặng ngôi cao,

Ai mà khi dể lưỡng biên ghi vào.

Thuở xưa là giặc Ô sào,

Bây giờ là giặc Nhựt Tàu tranh đương.

Nói cho thiên hạ đặng tường,

Rán mà tu niệm khỏi đường đao binh.

Giặc kia phía Bắc chiến chinh,

Tu nhơn thì đặng Thần linh hộ mình.

Chớ đừng ỷ sức đoạn kình,

Rồi sau than trách nói mình không hay.

Phật biểu truyền khắp đông tây,

Chẳng nghe không kể bấy giờ trách ai.

Tôi là ông Sãi bán khoai,

Bán gạo ông Chưỡng ai ai cũng lầm.

Ghe cui đi kiếm dư trăm,

Tôi đậu tại đó hơn hai ngày trường.

Ghe cui ghe khoai ghe lường,

Chèo qua chèo lại tôi đương độ trà.

Có người bán bánh thiệt thà,

Bao nhiêu quỉ mị tinh tà sạch không.

Thấy vậy thêm não thêm nồng,

Trở về núi Cấm non bồng bấy lâu.

Rồi tôi qua đến bên tàu,

Bây giờ trở lại An Giang Nam Thành.

Tôi đâu có nại nhọc nhằn,

Cầu cho ai nấy làm lành tu thân.

Tích thiện như đặng vàng cân,

Nhược bằng tích ác chẳng an thân mình.

Tôi thề chứng có Thiên Đình,

Đặng cho ai nấy chớ tình nghi nan.

Mấy người ăn ở nghinh ngang,

Tới đời thây bỏ lền khênh như rều.

Tôi khùng nên nói trớ trêu,

Lung lăng gian ác nên nêu bảng đề.

Truyền rao khắp hết chợ quê,

Ai coi gian ác tựu tề mà coi.

Nói cho thiên hạ xét soi,

Vân Tiên nào phải con nòi Đế Vương.

Bởi chơn tâm tánh hiền lương,

Thấu đến Thiên Đình Thượng Đế mến thương.

Cho chàng kế vị Sở Vương,

Trịnh Hâm là đứa bất lương ra gì.

Gian thần Đổng Trác ai bì,

Lầm tay Điêu Thị chàng thì mạng vong.

Kiệt Trụ là đứa tham dâm,

Đày Châu Văn Đế nhơn dân khốn nàn.

Trụ Vương sau lại tan hoang,

Văn Vương tu niệm sau an nước nhà.

Xưa nay có khác đâu là,

Tu hành thời lại lánh xa tai nàn.

Mấy đứa hung ác bất nhân,

Nào ai tạc để vô trong miễu thờ.

Tu nhơn tích đức hiển vang,

Cũng như Quan Đế miễu am đền thờ.

Nghĩ thương trần thế bơ vơ,

Tôi ra tỏ hết tri cơ cho trần.

Tôi đâu mà có an thân,

Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần.

Mến là mến đức Hoàng Lân,

Thương là thương lấy vạn dân mắc nàn.

Tôi thề chứng có Tam Hoàng,

Thương trong thiên hạ nào màn thân tôi.

Miễn cho thiên hạ tâm hồi,

Rán mà tu niệm như chồi quế thơm.

Tu hành Trời Phật thấy thương,

Lạy Phật như thể học đường ngũ môn.

Ác nhơn như ốc mượn hồn,

Đừng lấy tu niệm ỷ khôn mà cười.

Bạc bảy đâu sánh vàng mười,

Một tiếng niệm Phật hơn mười người sang.

Niệm Phật mà đặng bình an,

Sang giàu ỷ thế lại mang tai nàn.

Tới chừng thấy họa khóc than,

Dầu cho kêu réo chuyển vang đặng nào.

Bấy lâu cười nói lao xao,

Bây giờ mắc cạn kêu tao làm gì ?

Thái Tây với cõi Huê Kỳ,

Phép hay thuốc giỏi vậy thì thua ai.

Có chết sọ bửa làm hai,

Coi tim coi phổi coi rày mật gan.

Nói thôi giọt lụy đầm đầm,

Dương gian nhiều kẻ phải lầm Tây Phiên.

Nói rằng tổ quốc là tiên,

Cho nên bá tánh lụy liên mất hồn.

Bấy lâu chưa biết dại khôn,

Bây giờ có Phật giáo ngôn cho mình.

Tu nhơn là kẻ hữu tình,

Lung lăng là đứa khác hình nhơn gian

Cho nó ăn nói nghinh ngang,

Chẳng kiêng chẳng nể ngửa nagng chê cười.

Chừng nào vào cửa thứ mười,

Thời là mới biết việc mình làm sao.

Đoái nhìn mười cửa đề lao,

Nhiều người phải bị lao đao ra vào.

Phật Trời truyền dạy khắp bao,

Sao không gìn giữ hùng hào làm chi ?

Thấy đời tôi lại ngẩn ngơ,

Phật Trời đâu có làm ngơ bao giờ.

Trẻ thơ cho đến tuổi già,

Tu thời có đức Di Đà chứng minh.

Nói cho thiên hạ làm tin,

Phật Trời không phải không linh mà phiền.

Thương là thương kẻ thảo hiền,

Dầu ai giàu có chức quyền mặc ai.

Một lòng tín ngưỡng nào sai,

Chẳng tham danh lợi nào nài giàu sang.

Dầu cho đói khó cơ hàn,

Cũng không có mắc những đàn yêu tinh.

Phật Trời phân xử công bình,

Thương đời nên mới cho kinh lưu truyền.

Tu hành thời đặng bình yên,

Nhược bằng tích ác chớ phiền Trời xanh.

Kinh truyền dã dạy rành rành,

Dữ lành hai lẽ rao cho dân tường.

Thương thời chỉ nẽo dắt đường,

Bây giờ thấy nước Quỉ Vương nhiệm mầu.

Nó thông khắp hết quận châu,

Đâu đâu đều có lập lầu giáo dân.

Phật Tiên Thần Thánh chẳng cần,

Chê Phật khi Thần giáo dạy lê dân.

Phật Trời thương hết thế trần,

Truyền kinh Tăng sĩ rao cho dân tường.

Tây Sơn xuất thế Minh Vương,

Độ cho khỏi hết tai ương dưới trần.

Thấy đời cận lắm bớ dân,

Cho nên trần hạ nhiều lần đổi xoay.

Mẹ cha ơn nghĩa lâu dài,

Nhiều người chẳng kể những ngày sở sanh.

Mẹ cha Trời Phật sanh thành,

Sao không kiêng nể để đành bơ vơ.

Làm con phải xét thiên cơ,

Đền ơn cha mẹ Trời đâu bỏ mình.

Lung lăng chớ trách thần linh,

Tuy là chẳng thấy nhưng linh nhiệm mầu.

Thấy đời mà lại thêm sầu,

Không lo tu niệm để mà câu mâu.

Bây giờ hơn lúc nhà Châu,

Đảo điên bá tánh thảm sầu nhơn dân.

Âm dương tạo hóa xoay vần,

Tu hành thì khỏi mười phần lao đao.

Lung lăng trốn chẳng đặng nào,

Cũng như chim nọ mắc vào bẫy trương.

Lưới Trời bủa khắp mười phương,

Sao không lo sợ lại lo tranh cường.

Tu hành Trời Phật mến thương,

Lung lăng kêu ngạo phải vương lưới hồng.

Gẫm người dương thế cõi trần,

Không ai ở đặng ngoài Trời vô đây.

Nói cho mà giữ lấy thân,

Để sau rồi lại mắc nơi lưới hồng.

Rồi trách Trời Phật chẳng yêu,

Bởi mình bạc ác Phật yêu đặng nào.

Lưới Trời đã bủa khắp bao,

Mấy đứa hung ai dung đặng nào.

Lung lăng như cá ở ao,

Tu hành khác thể như hào hoa Tiên.

Rán mà tu niệm thảo hiền,

Tu hành đâu có tốn tiền mà than.

Phải tu mà tốn tiền ngàn,

Thời là thiên hạ trách than không phiền.

Tu là cầu cho Cửu Huyền,

Cầu cho cha mẹ khỏi miền Diêm Vương.

Cầu cho cha mẹ an khương,

Cầu cho Thánh Chúa Đế Vương trị đời.

Cầu cho mình đặng thảnh thơi,

Cầu Thầy muôn tuổi ở đời với con.

Cầu cho giữ đặng năm hằng,

Ở đời đừng thấy kẻ hèn phế vong.

Cũng đừng lánh đục tầm trong,

Bợ người giàu có lại vong kẻ nghèo.

Chuột nằm trên núi cheo leo,

Trâu còn cày ruộng Cọp leo khỏi rừng.

Mèo mừng rỡ chạy tưng bừng,

Rồng nằm thời lại tìm đường lánh thân.

Ngựa đua chạy giỡn vang rân,

Tới Dê lại cực vào rừng kiếm ăn.

Khỉ bầy chạy lạc lăng xăng,

Gà đương ăn lúa túc con om sòm.

Chẳng lo bươi chãi nuôi con,

Chó kia gặp chủ chẳng còn sủa tru.

Heo kia ăn uống ngao du,

Nhảy hoành gầm giỡn rừng thu vui vầy.

Chẳng còn lẻ bạn lạc bầy,

Gà chó heo rày vui đã nên vui.

Mấy năm nghĩ lại ngậm ngùi,

Thương thay thiên hại sụt sùi than van.

Chừng nào mối nước đặng an,

Hiền còn dữ mất hai đàng khác nhau.

Có tu nhờ lấy ngày sau,

Lung lăng thời đặng buổi đầu mà thôi.

Cũng như đảng nịnh cướp ngôi,

Tới chừng trung phục gốc chồi tan hoang.

Tu hành như cái lầu vàng,

Dầu cho có rách cũng còn danh thơm.

Kinh nầy nói hết thiệt hơn,

Mặc tình thiên hạ đâu hơn thời tầm.

Phật biểu truyền chẳng sai lầm,

Đạo nào thì cũng ở trong cõi Trời.

Trách lòng bá tánh nhiều lời,

Đạo nào cũng bởi Phật Trời lập ra.

Vì chưn nhiều nước vậy mà,

Cho nên Trời Phật lập ra mới nhiều.

Cũng đừng thấy vậy mà kiêu,

Tổ Tông Nam Quốc cũng theo Phật Trời.

Dân Nam sao lại đổi đời ?

Phật đạo ngày trước cũng là Thuấn Nghiêu.

Bá tánh sao chẳng học theo ?

Phật Trời là Đạo ông bà ngày xưa.

Hạ Ngươn sao chẳng ngăn ngừa,

Đạo nay lại mến đức xưa lại từ.

Ai mà biết xét thiệt hư,

Noi theo Tông Tổ có hư bao giờ.

Trong nhà lập mấy bàn thờ,

Cửu Huyền Thất Tổ ngoài thờ năm Ông.

Thường đêm hương đốt đừng không,

Thời lại là có lưỡng Thần chép biên.

Chung niên sổ nạp Thượng Thiên,

Thiên Đình tùy đó phước liền ban cho.

Hung hăng tai nạn rất to,

Nói cho ai nấy đặng lo giữ mình.

Bao la Trời rộng thinh thinh,

Hiền lương sẽ biết máy linh rõ tường.

Nếu ai chẳng biết lo lường,

Hại nhơn ích kỷ mang đường họa tai.

Bởi mình chẳng biết kể ai,

Cứ theo ngạo Phật khi Tiên chê Thần.

Mấy đứa ăn ở bất nhân,

Thời là lại có lưỡng Thần chép biên.

Dầu cho thác xuống Huỳnh Tiền,

Diêm Vương vấn tội nào yên trong mình.

Khi sống kiêu ngạo Thiên Đình,

Thác xuồng âm phủ hành hình thâm oan.

Ở trên dương thế nghinh ngang,

Thác xuống Âm Phủ có an bao giờ.

Thương thời nói hết thiên cơ,

Có nghe thì khỏi làm ngơ tự lòng.

Thấy trong thiên hạ long đong,

Kinh nầy một bổn hết lòng giáo khuyên.

Sai trong sĩ tử rao truyền,

Rải trong thiên hạ dưới miền trần gian.

Ai thấy mà chẳng rao truyền,

Ắt là mang họa lụy liên cả nhà.

Chép coi rồi lại truyền ra,

Khỏi tai khỏi nạn một nhà bình an.

Chép đặng một cuốn vẻ vang,

Tề gia lớn nhỏ bình an thay là.

Nếu ai thấy chẳng truyền rao,

Mắc phải Ôn Dịch đừng gào trách than.

Nam Mô Quan Thế Âm Bố Tát Ma Ha Tát.

(Niệm ba lần)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn