2) Sứ mạng Đức Huỳnh giáo chủ.

13 Tháng Giêng 200612:00 SA(Xem: 33059)
2) Sứ mạng Đức Huỳnh giáo chủ.

          Về sứ mạng của Đức Huỳnh giáo chủ, ông Thanh Sĩ có viết:

 “ Chúng ta dù phải lăn lóc gai chông, lấm lem bùn trịnh mà lòng không núng nao thối chuyển là vì chúng ta thấy rõ sứ mạng của Đức Thầy đối với nhân sanh trong buổi này. Và hiểu biết tường tận tâm đức của Đức Thầy, chúng ta mới đeo đuổi đạo lý đến cùng không để tâm lui sụt.

 Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc

 Đức Di Đà truyền mở đạo lành;

 Bởi vì Ngài thương khắp chúng sanh,

 Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.

          “Đoạn này Đức Thầy nói người đời nay muốn tu tỉnh rất may được gặp Đức Di Đà sắc lịnh cho Ngài ra đời khai mở mối đạo thì cứ mạnh mẽ tin tưởng để qui đầu theo Phật pháp.”

           “ Sở dĩ Đức Di Đà sắc lịnh cho Đức Thầy ra đời khai sáng mối đạo, vì tâm Đức Phật  quá thương xót chúng sanh ở buổi Hạ nguơn đã chịu lắm đau khổ và sẽ không khỏi bị tận diệt, nên Ngài không những sắc lịnh cho Đức Thầy xuống trần mà còn truyền cho các vị Bồ Tát, La hán khác đồng hạ phàm tùy căn cơ, tùy bản xứ và tùy nhân tâm dạy bảo giáo pháp thích ứng khiến cho chúng sanh vui vẻ thực hành theo hầu được chút phước duyên để tránh khỏi ngày thống khổ.

           “ Xem đoạn trên đây, chúng ta thấy Đức Thầy ra đời có sắc lịnh của Đức Di Đà, Đức Phật Tổ, chớ không phải việc ngẫu nhiên.

           “Thiệt ra đối với Đức Thầy, dù chúng ta chưa được cảm thông máy huyền vi, chưa được sự mách bảo của các đấng vô hình đi nữa, nhưng chỉ xét trong kệ giảng của Ngài, chúng ta cũng được hiểu biết một phần về sứ mạng của Ngài ra đời trong thời kỳ nầy với mục đích thi hành năm khoản chính như sau:

 1.     Báo tin ngày tận diệt sẽ tới;

 2.     Đưa các thiện căn đến kỳ đại hội Long Hoa;

 3.     Đánh thức các linh hồn đã gieo rắc thiện duyên cùng Ngài ở nhiều tiền kiếp;

 4.     Phò trợ Thánh Vương;

 5.     Chấn hưng đạo Phật.

 “ Lẽ thứ nhứt, Đức Thầy ra đời là Ngài nhận thấy buổi tận diệt của nhân sanh gần đến, Ngài không nỡ ngồi nơi ngai vị Phật quốc hưởng lấy yên vui một mình để cho nhân sanh chết dưới cảnh tàn hại của nạn binh lửa ở thế gian, nên Ngài xuống trần, trong kệ sám Ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại việc tận thế để đánh thức lòng người sớm bỏ dữ về lành, cải tà quy chánh, trừ việc lòng tham, khởi tâm bố thí, dứt sạch mê muội trở lại bổn tánh minh mẫn và luôn luôn lo việc lành việc phải để nhờ sự ủng hộ của Thần Thánh ngày kia, dù quả Địa cầu biến đổi, nhân sanh đa nạn, chẳng những mình được thoát qua mà còn được sống đến ngày ơn trên lập đời Thượng nguơn.”

           “ Lẽ thứ hai Đức Thầy ra đời là Ngài dùng đủ cách để đưa con người hiền thảo đi đến Hội Long Hoa. Cách thức đưa rước ấy là Ngài dùng thuyền Bát nhã, tức là trí huệ của Ngài mở mang tâm tánh đưa chúng sanh được khỏi mê si tà kiến và chỉ bày lẽ huyền diệu đạo lý cho người khỏi tiêm nhiễm ngông cuồng, Khi chúng ta cùng trở lại đường chơn chánh, đó là mỗi chúng sanh đã lên thuyền Bát nhã vững vàng đến cõi giải thoát.

           “ Lẽ thứ ba Đức Thầy ra đời là Ngài có mỹ ý đánh thức các linh hồn đã bao nhiêu kiếp qua từng gieo sâu duyên lành cùng Ngài, mà giờ nầy họ còn đeo mãi danh lợi, họ còn đương tươm ướp vật dục cho họ có cơ nhớ lại kiếp trước đã từng tu hành, đã từng gặp đạo tu tỉnh, nếu bây giờ quên đi là không khỏi sanh  các cảnh giới đê hèn. Vì tiền kiếp Đức Thầy đã từng vào ra ở cõi nầy, phần nhiều là ở xứ sở Việt Nam cũng đã đem lắm lời đạo lý dạy cho nhân sanh, từ vùng nầy đến vùng khác, hoặc dùng diệu dược cho chúng sanh lành bịnh hầu cảm ơn cứu khổ mà tu hành. chúng sanh ở thời ấy, được sự hóa độ của Đức Thầy và Đức Thầy cũng từng nhờ sự giúp đỡ của họ, nên thời kỳ này là thời kỳ tận diệt. Đức Thầy nghĩ vì các con lành kiếp trước, nên Ngài ra đời để gần họ, nói bên tai họ, hoặc dùng bút mực dạy cho họ ăn năn cải hối, khỏi ngày tận diệt. Nhứt là Ngài muốn cho con hiền thảo ấy cùng Ngài đến Hội Long Hoa hay về cõi Cực Lạc.

           “ Bởi ngày Hội Long Hoa, có Đức Từ Thị ra đem lời cao siêu như Đức Phật Thích Ca dạy cho chúng sanh nghe tu hành để khỏi chốn mê lầm, khỏi cảnh eo hẹp ở kiếp phàm. Nếu sự tu hành ấy được tinh tấn sẽ đến quả vị bất sanh bất diệt. Nhược bằng kiếp này, chúng sanh chơn chánh mà còn bị quả ác do kiếp trước trả lại, hoặc bị người giết hại mất xác, song linh hồn kia cũng được Thầy Tổ tiếp dẫn về Tây phương an hưởng quả vô sanh. Nếu ý nguyện cứu đời của người ấy chưa mãn thì sẽ trở lại cõi trần dìu dắt chúng sanh tu hành giải thoát.

           “ Lẽ thứ tư Đức Thầy ra đời là Ngài vì mến ân đức của vị Minh Vương, nên vị Minh Vương ra đời thì Đức Thầy có bổn phận ra theo để giúp đỡ cho Ngài sớm được hoàn thành nhiệm vụ; từ chỗ nước nhà bị thống trị trở lại tự do; từ chỗ nhu nhược được trở nên cang cường; từ chỗ đen tối trở lại màu sáng sủa v.v…

           “ Lẽ thứ năm Đức Thầy ra đời là nỗ lực chấn chỉnh trùng hưng mối đạo của Phật-Thích Ca đã khai sáng từ lâu mà ngày nay đã biến đổi cái tánh chất tinh vi của nó, nghĩa là đạo Phật trước kia rất chơn chánh cao siêu, các hạng học Phật rất tín thành, nhưng gần đây, vì sự mua danh chác lợi của kẻ nương bóng từ bắt đầu bi, mượn lời Phật pháp làm cho nó suy đồi đi; cảnh  chùa chiền là nơi tượng trưng cảnh Tây phương, cõi giải thoát, nơi thanh tịnh, thế mà bây giờ họ lại chứa đựng kẻ bất lương xảo quyệt, phạm trai phá giới, vì vậy Đức Di Đà cũng như Đức Phật lấy làm đau xót, nên sắc chỉ cho các vị Bồ Tát và La Hán len lỏi xuống cõi thế gian, hoặc vào hạng người làm ruộng rẫy, hạng người buôn bán, hạng vua quan hoặc lẫn lúc trong hàng đĩ điếm v.v… để đánh thức lòng người chưa hiểu đạo lý sớm biết ăn năn. Việc làm ấy, đến chừng nào chúng sanh trở lại bản nguyên rộng lớn của Phật pháp thì lòng chư Phật mới thỏa được.

           “ Các Ngài có mỹ ý làm cho chúng sanh đến cõi giải thoát song chúng sanh hành sai lạc chơn lý thì phải sa đọa, như thuốc rất hay mà dùng không nhằm bịnh thì có hại. Nên lẽ thứ nhứt các Ngài chủ ý làm cho chơn lý được nêu cao; lẽ thứ hai làm cho chúng sanh hành chánh đường; lẽ thứ ba khi chúng sanh được hành chánh đạo sẽ đến cõi giải thoát. Được thế sẽ không còn chia rẽ chùa này chùa khác, tăng nọ ni  kia nữa.

           “ Mỗi khi xét lại năm khoản vừa kể qua, chúng ta thấy rằng ĐứcThầy là vì sao cứu khổ chúng sanh ở thời kỳ nầy, cũng là một tiếng chuông rất thanh, rất lớn trong nền đạo Phật. Ngài sẽ có phương thuốc mầu nhiệm làm cho bịnh mê trong các từng lớp nhân loại hết mê. Thấy vậy lòng chúng ta càng tin mạnh lên và tin chắc rằng: Vì thời quay vận kiểng mà Ngài vắng mặt, chờ ngày kia đến việc thì Ngài cũng trở về làm xong nhiệm vụ, vì nhiệm vụ ấy, với kẻ khác dù có tài hơn cũng không thể thay thế Ngài được.

           “Nói tóm lại, đến chừng nào Hội Long Hoa được khai mở cách rõ ràng cho muôn mặt đều thấy, những người thiện, kẻ hiền đức được trở lại vị cũ, nghĩa là những người  tiền kiếp có gieo duyên lành với Ngài nay cùng một nhịp quay về con đường Phật pháp; những kẻ đã làm được việc lành việc phước, từng bố thí chẩn bần, từng thi  ân lập đức đến ngày Hội Long Hoa sẽ chứng đắc quả vị  tại tiền; công việc của Đức Thánh Vương ở thời kỳ ấy khi nào được xong xả … và chót hết khi nào nền đạo Phật được trở lại chơn chánh, từ hạng tại gia, hạng xuất gia đều giữ giới luật tinh nghiêm, không còn sự chê bai hay dối trá nhau thì chừng ấy sứ mạng Đức Thầy mới tạm gọi là xong.

           “ Nhược bằng ngày tận diệt chưa tới Long Hoa chứ mở, kẻ làm ác chưa quày đầu, người làm lành làm phước chưa hưởng sự vui tươi…  nền Phật giáo chưa được quang minh thì nhiệm vụ Đức Thầy còn nặng và Ngài còn trụ thế lâu ngày để làm xong sứ mạng. Mặc dù kỳ xuống thế này Ngài gặp nhiều tai ách và bị Ma vương khuấy nhiễu song Ngài không nao núng và nhờ các vị Long Thần Hộ Pháp luôn luôn bảo vệ Ngài được bình an, nên sớm muộn gì Ngài cũng làm xong phật sự,”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn