Mục đích chính yếu của Bửu- Sơn Kỳ- Hương, với pháp môn Tu Nhân Học Phật, có thể nói là: vãn hồi đạo Nhân và xương minh đạo Phật.
Xét qua những nguyên nhân làm cho đạo Nhân suy đồi, ông Thanh Sĩ có viết:
"Trong xứ chúng ta, trước kia hầu hết trong nước từ hàng vua quan đến dân đã đều đồng nhứt hấp thụ lý thuyết của Khổng Tử là tu về nhân đạo, mỗi người đều học việc: Nhân, nghĩa, lễ ,trí, tín. Sau khi biết: Nhân, nghĩa, lễ Trí, tín rồi, họ thực hành như: tôi trung với vua, con hiếu với cha mẹ v.v… dù ai cũng vậy. Nhưng từ sau ngày nước nhà bị trị, nghĩa là từ đời vua Tự Đức trở lại đây, làn sóng văn minh phương Âu tràn vào xứ sở, bôi xóa tất cả thành tích đạo nghĩa trước kia của dân tộc; từ đó đạo nghĩa bị bôi lọ tất cả, đối lại lắm thời tồi bại diễn ra. Vì thế đạo luân thường phai dần đi, cho đến ngày giờ này, mặc dù có nhiều chùa miễu, nhiều tổ chức trùng hưng đạo Thánh Hiền, nhưng không phục hồi như cũ.
"Nếu muốn luân thường đạo lý không trùng hưng chấn chỉnh được, cứ ở trong tình trạng suy vong mãi thì trong xã hội không tránh khỏi khổ huống: con giết mẹ cha, vợ bội bạc chồng, tình anh em chia xẻ nhau, tình bè bạn không còn đãi nhau chơn thật nữa. Chẳng những vậy thôi mà nó còn dẫn đến giai đoạn khốc liệt là người ăn xé người ; chỉ vì lòng ích kỷ độc ác mà họ tàn sát nhau rất dễ dàng hơn giết con vật"
Sau khi xét qua những nguyên nhân suy đồi, ông Thanh Sĩ, để vãn hồi đạo Nhân có đề ra mấy lẽ trọng yếu:
"Lẽ thứ nhứt, hưng phục ngũ luân cho thuần mỹ là làm sao cho tất cả mọi người trong xã hội, như làm tôi thì không bội phản, làm con thì không ngỗ nghịch, làm vợ thì không trái phụ, giữa anh em không bạc ác và đối với bạn bè chẳng lừa phỉnh nhau. Được như thế tức là đạo luân thường sẽ khỏi phải làm đau lòng tổ tiên và không phụ Thánh Hiền xướng xuất lý thuyết đạo nhân.
" Lẽ thứ hai, khắc kỷ được chơn chánh là trước khi đứng ra hành xử đạo nhân cho được chúng ta toàn thì mình cần phải sửa đổi thân tâm được chơn chánh tròn vẹn. Cách sửa đổi ấy là phải rèn luyện cho mình được có việc nhân, nghĩa, lễ trí, tín. Nếu người không lòng nhân, nghĩa, lễ, trí… thì hẳn không phải người. Điều này, Đức Huỳnh Giáo chủ nói rõ: "Nếu thiệt người thì biết thương người ". Ngài Mạnh Tử thì nói: "Vô nhân, nghĩa , lễ, trí giả phi nhân dã". Người không lòng nhân, nghĩa, lễ, trí là chẳng phải người, mặc dù họ mang xác chất như người.
"Đó là phận sự của người trai, còn gái thì luôn luôn tập tành: công, dung, ngôn, hạnh. Những điều này mỗi người phải được tiêm tất giồi luyện từ lúc nhỏ đến lớn. Có được đức công thì việc làm khéo léo gọn ghẽ, có được đức dung thì dáng vẻ được trang nghiêm; có được đức ngôn thì lời nói được ngay thật; có được đức hạnh thì mới có những vẻ nhu mì và lòng từ hiếu được. Người phụ nữ gìn được bốn đức ấy sẽ làm gương mẫu cho xã hội xung quanh học theo.
"Tuy nhiên các việc ấy chưa đủ, còn cần rèn luyện thêm các đức tánh có ý nghĩa tốt đẹp khác nữa, nhứt là đừng bỏ qua một tánh hạnh tốt nào mà không trau luyện và cũng không dung chứa một tánh xấu nào mà không chừa tránh. Nếu gái trai cùng biết cung kính các đức tánh như đã kể qua thì trong gia đình được chúng ta đáo không đến dở dang tồi tệ.
"Điều chót hết của đạo làm người là khi mình đứng ra xử sự, mọi việc đều lấy lẽ công bằng và nhân đạo. Không vị tư vị kỷ làm lệch đòn cân nhân đạo và không làm bức người trong việc phi nghĩa, nhứt là làm sao cho mỗi người đều biết trách nhiệm của mình; hễ làm cha mẹ có bổn phận dạy con cái từ bé cho đến nghịch ngang tàng thì mình phải chịu trách nhiệm; làm anh chị phải kềm chế em út, nếu để nó lung lăng phóng túng làm việc bại hoại thì người anh chị chịu trách nhiệm. Các vấn đề khác cũng vậy, đều có tương quan nhau; cha mẹ chịu trách nhiệm con cái; anh chị có trách nhiệm em út, chồng có trách nhiệm vợ; đến như thầy có trách nhiệm trò; bạn bè thì có trách nhiệm bênh vực nhau. Mỗi người đều phải biết trrách nhiệm như thế cả.
"Tóm lại ai cũng đều biết trách nhiệm trong phạm vi của mình để xử sự cho xong cả việc nhỏ đến việc lớn, khiến từ trên đến dưới đều đem lại sự hòa hảo lẫn nhau, dù phong tục có suy đồi cách mấy hay tâm trạng con người có đen xấu bao nhiêu cũng lần lượt cải chế lại chánh đáng như trước được. Nhược bằng người sống để mà sống, chớ không hiểu bổn phận mình đối với: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em như thế nào thì phong tục tốt cũng đồi lại xấu, còn nếu phong tục xấu thì càng xấu thêm. Như vậy thì loài người sẽ chìm xuống thấp thỏi không khác loài vật người ngu độn".
Đồng thời với sự vãn hồi đạo Nhân, đạo Phật cũng cần được xương minh để cứu độ "hạng người đương say gục tà thuyết và kẻ còn lầm đường vày vò bị người lợi dụng có cơ tỉnh thức thoát vòng trói buộc của tà sư ngoại giáo hầu được giải thoát hay đến được Hội Long Hoa".
Về điểm xương minh đạo Phật, ông Thanh Sĩ có nêu ra bốn đề mục:
1. Duy trì chánh giáo của Phật Thích Ca;
2. Dắt người trở lại con đường lành;
3. Khiến cho mỗi người được tỏ ngộ;
4. Đưa nhơn sanh đến Hội Long Hoa hay về cõi Cực lạc.
" Lẽ thứ nhứt của cuộc xương minh đạo Phật là duy trì chánh giáo của Phật Thích Ca khiến cho chúng sanh cùng được giác ngộ như nhau và cùng hiểu được chơn lý của Phật. Lúc nào họ cũng thờ kính phụng mối đạo vô vi của Phật và hiểu luật nhơn quả báo ứng một cách rõ ràng, tránh tất cả những thuyết có ẩn ý làm mê tín lòng người.
Lẽ thứ hai của cuộc xương minh đạo Phật là dắt người trở lại con đường lành, bằng cách dùng đủ lẽ hay ho để hướng dẫn những người nghe theo tà thuyết, tín ngưỡng ngoại đạo, sớm thức tỉnh trở lại con đường quang minh của Tổ Thầy đã vạch sẵn. Nhứt là làm sao mọi người rứt bỏ các việc ác, theo làm mọi điều lành, khiến lòng ác độc của con người được bớt lần đi, tức thì họa tham tàn, lòng giết hại, sự đao binh của nhân loại dần dần nhưng lại' rốt hết là sẽ cứu được chúng sanh lắp bớt nguồn sống chết để cùng được nhẹ nhàng siêu hóa về cõi thanh tịnh an cư của chư Phật.
"Lẽ thứ ba của cuộc xương minh đạo Phật là khiến cho mỗi người được tỏ ngộ bằng cách phương tiện dùng pháp quyền biến, hoặc chơn thiệt, hoặc mau hoặc chậm để vạch xé ra từ việc một của sự tham lam, sân nộ, mê, si, ái, dục, không phải là thiệt có mà chỉ do vọng niệm vô minh của mỗi người mà thấy nó dường như có thiệt, tưởng của cải là trường tồn vĩnh cửu thì dù nó mất mát cũng không khờn mẽ núng nao. Chúng sanh nhận hiểu như thế, rồi tự mỗi người soi chiếu lại bản tâm của mình được thấy nó tròn trịa sáng sủa như mặt nhựt và có đủ công năng để sử dụng một cách mầu nhiệm; nó có thể hiểu tất cả việc làm, tất cả các món không bị cảnh bên ngoài ám ảnh vào mắt, tai, mũi, miệng mình nữa, khiến đầu óc chẳng còn mê muội rối rắm, vẫn được một màu rỗng rang sáng tỏ, phân tách được từ việc một của sự đời hay sự đạo để thất hành đúng theo chơn lý. Sau hết là khiến cho mỗi người tự tu, tự ngộ lấy mình, không có ỷ lại vào sự giúp đỡ của kẻ khác; vì nếu cứ ỷ lại vào sự giúp đỡ của kẻ khác mà mình không lo lấy thì không khi nào đến chỗ giải thoát mau lẹ được.
"Lẽ thứ tư của cuộc xương minh đạo Phật là đưa nhơn sanh đến Hội Long Hoa hay về cõi Cực lạc bằng cách khiến mỗi người quay về con đường lành và tỏ ngộ bản tâm, tức nhiên đến ngày khai mở Long Hoa họ sẽ được đến đó để hầu nghe lời lẽ nhiệm mầu của chư Phật giảng giải và họ sẽ được sự ban thưởng của vị vua Thánh., Nếu trong lúc tu hành, lòng họ chuyên trì lục tự một cách thuần thành thì họ sẽ được Đức Di Đà hiện thân đến tiếp rước về cõi Cực lạc hưởng lấy quả an vui hơn cõi Ta bà gấp bội." (1)
Một khi đạo Nhân được vãn hồi, đạo Phật được xương minh, tức là mục đích của pháp môn Tu Nhân Học Phật đã đạt.