Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 10

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 44153)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 10

Xuống dương-gian thân Điên nào nệ,
Chốn hồng trần đuốc huệ liền khai.
Cho nam-nhi sữa mặt râu mày,
Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.
Rán bắt chước những tranh tuấn-kiệt,
Gái anh hùng xưa có Trưng-Vương.
Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương,(1)
Rủa xong hận thù chồng dốc trả.
Xưa Châu-Xàng thanh long phải tá,
Ngăn Sư-Đồ đặng cứ Ngũ-Viên.
Nói cho đời rõ biết Khùng Điên,
Điên vận bĩ điên câu ái quốc.
Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc,
Đem Đạo lành ban rải nơi nơi.
Mảng chờ trông bá tánh thảnh-thơi,
Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.
Rừng bác-ái điên đời biến ảo,
Điên như ta vì Đạo vì dân.
Điên tu cầu Quân thánh rải ân,
Cho bốn biển dân lành được hưởng.
Điên dẹp gác âm thinh sắc tướng.
Tầm vô vị kiếm cảnh Niết-Bàn.
Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang,
Qua Đông-độ vớt người hữu đức.
Bể ái hà gươm linh sớm dứt,
Lòng bồ-đề sắt đá dám kình.
Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
Noi chí ấy sửa-sang thời-thế.

(1) Câu nầy sau lại, Đức Thầy có sửa như vầy:
Đến đời nay còn phụng lửa hương.

Trời quá buổi chinh chinh vừa xế,
Chờ ít lâu cũng lặn về Tây.
Lúc huỳnh-hôn đền trí soi đầy
Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc.
Điên đàm luận ít câu dốt nát,
Mong chị anh bàn-bạc thể-nào?
Lời văn thô ý-kiến chẳng cao,
Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường đạo-đức bước đi từ nấc,
Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình.
Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,
Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.
Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết,
Giải thoát rồi pháp bất khả dùng.
Nương gia-đình kính trọng cội thung,
Lo nưng đỡ trong ngày tuổi hạc,
Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác,
Ghén rượu nồng chẳng nếm mà say.
Say lê-mê lết-mết tối ngày,
Say đạo pháp say mùi hương khói.
Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi.
Bể ái hà rứt bỏ vẹn lau.
Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào,
Trần-Di ngủ say câu thành tựu.
Quyết đưa chúng về nơi non Thứu,
Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên.
Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền,
Câu không ngạnh chờ non phụng gáy.
Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê.
Nên phải đành mang lốt làm hề,
Mặc bá tánh khen chê cũng phải.
Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại,
Dốc làm sao rõ mặt tang bồng.
Nghiên hai vai gánh nặng non sông,
Vớt trăm họ lầm than bể khổ.
Ví như loại sanh cầm hồ thố,
Còn thương nhau lại huống chi người.
Đứa hai lòng sao chẳng hổ ngươi,
Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ.
Dấu bút tích tuông bay theo gió,
Học sách chi phỉ báng ông cha.
Thấy dân tình xem giảng ngâm nga,
Lão xót dạ đôi lời trần tố.
Đức Khồng-Thánh người sanh nước Lỗ,
Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ.
Sá chi lời đạo-chích tục thô,
Kẻ ngu xuẫn khi người nhân đức.
Danh hiền-sĩ non sông náo-nức,
Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu.
Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du,
Lúc thập bát chư hầu rối loạn.
Bực Thánh-nhơn công lao chẳng chán,
Huống chi ta nào dám than-van.
Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,

Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết.
Coi ai có chứa bàu nhiệt huyết,
Dùng đạo mầu cứu vớt sanh-linh.
Nếu để chờ sấm nổ vang thinh,
E bá tánh ăn-năn đã muộn.
Giảng với kệ ra đà bốn cuốn,
Ít có người khám rõ cơ huyền.
Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,
Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng.
Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn,
Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng.
Để làm cho mích bụng chị Hằng,
Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ.
Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,
Hiếm bao người được cá quên nôm.
Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,
Chăng thèm kể cha hiền trông đợi.
Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi,
Nỡ phụ-phàng vui Tống-Khâm-Tôn.
Xem truyện xưa mà bắt hết hồn,
Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ.
Gã Tần-Cối ít ai còn lạ,
Dụng mưu thần giết nịnh mặt lỳ,
Dám thiết kế hại tôi lương-đống.
Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng,
Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san.
Nhờ Tư-Đồ thiết lập Liên-hoàn,
Nghiệp nhà Hớn mói an một lúc,
Cảnh gian nan như Lưu-Hoàng-Thúc,
Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân.
Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa ân,
Vượt năm ải về thăm huynh trưởng.
Kẻ nghỉa khí thiên kim vạn lượng,
Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen.
Xem tích xưa thẹn với bóng đèn,
Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa.
Coi sự sống như Tiên nưa nửa,
Mê mồi thơm như cá lục-châu.
Sao chẳng lo thức tỉnh quày đầu,
Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ.
Cấp-cô-Độc là nhà bá hộ,

Còn đành lòng bố thí xã thân.
Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần,
Miễn hiểu đạo hơn là châu báu.
Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão,
E sau nầy tâm não đoạn trường.
Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương,
Trời đất xử những người bội phản.
Phải chỗi dậy nương dày hùng-tráng.
Chữ đại hùng đại lực từ-bi.
Vây mới trang quân-tử nam-nhi,
Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.
Đời cũng lắm bao người giá áo,
Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm.
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.
Ngọn bút sắt chỉ đường người tối,
Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng.
Kíp nương theo trực chỉ Tây-phang,
Đến cực-lạc tìm nơi an dưỡng.
Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng,
Lánh ta
bà cõi thế đua chen.
Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn,
Bạn phản bạn như người Bùi-Kiệm.
Trên mặt đất hạng người ấy hiếm,
Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng.
Nhình Trịnh-Hâm lão bắt mủi lòng,
Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh.
Viết ít câu cho đời ngâm vịnh,
Phận tài sơ xin hãy thứ tha.
Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca,
Tạm nghiêng bút vẽ tranh thế tạo.
Trong bá tánh nhìn xem châu đáo,
Chớ vội vàng chê Lão ngu-si.
Rạch lang tâm những đứa vô nghì,
Nhắc sơ tích người xưa trong sử.
Khuyên bá-tánh vạn-dân gìn-giữ,
Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình.
Đứng trung cang hành thiện truy kinh,
Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận.
Đã thấy lộ cơ trời báo ứng,
Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.

Nợ hồng-trần túc trái tiền khiên,
Ta quyết dẹp cứu nàn dương thế,
Noi chí đức Hoàng Thang luật chế,
Đời không hay những việc xa vời.
Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi,
Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón.
Cảnh thế tạo càng ngày thỏn-mỏn,
Giống vi-trùng thường đục phổi tim.
Đến cơn đau phương thuốc phải tìm,
Gặp Biến-Thuốc, Hoa-Đà lai thế.
Kim với cổ nhìn xem thế-hệ,
Sợ có ngày hoạch tội ư thiên.
Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền,
Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn.
Ai coi qua xin đừng bỏ lảng,
Gắng công-trình vạch lá tìm sâu.
Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu,
Phải sớm hứng giọt sương Đông-ha.
Điên nhơn-nghĩa điên vì đạo cả,
Thội chào đời khép cửa buồn duyên.
Có thiện-căn sớm lại cửa thiền,
Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc.

Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát.

Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn