Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 4

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 42904)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 4

Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN xướng:

Gió xuân muôn vật toại lòng rồi,
Nghĩ lại bâng-khuâng đạo Chúa tôi.
Cá phụ vẫy-vùng trong dấu cạn,
Trông chừng đấu nước luống ngùi ngùi.

Ngùi ngùi trông thấy đám mây xanh,
Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành.
Thẩm đến rừng nhu tơi vật sắc,
Dù ai đấp lủy nguyện bồi thành.

ĐỨC THẦY đáp:

Đạo-đức truyền ban cũng chửa rồi,
Xa đường nguyện ước chuyện con tôi.
Mưa tuôn vừa tiết ngư thong-thả,
Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi.

Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh,
Sum-hiệp cùng nhau cội nhánh nhành.
Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc,
Quyết lòng trợ thế với bồi thành.

Bồi thành mới phải đạo văn nhu,
Có lẽ ngày kia rắn hóa cù.
Lũ-lượt đoàn chim bay kiếm ổ,
Rán mà theo dõi bờ văn-nhu!

Văn-nhu vẹt phá sụp ao tù,
Nước túng dân nghèo lại thiếu xu.
Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp,
Phân trần cụ lão chuyện người tu.

Mỹ-Hội-Đông, đêm 22-1 Canh-Thìn

Vịnh ông ĐỊA bằng sành (Để tại nhà ông hai Xòn ở Vàm-Nao thuộc tỉnh Long-Xuyên)

Bảng chẹ ngồi chơi sướng hỡi ông!
Tâm lành sao chẳng tiếp non sông?
Nhơn dân bốn phía đương đồ thán,
Vui sướng chi mà lại tỉnh không?

Mỹ-Hội-Đông, sáng ngày 23-1 Canh-Thìn

Viếng làng PHÚ-AN (Châu-Đốc)

Lưng-chưng một bước lạ làng,
Viếng thăm khắp chốn luận bàn huyền-cơ.
Người đời lòng những ước-mơ,
Một câu đạo-hạnh lỡ ngờ chuyện xa.
Đêm khuya còn vắng tiếng gà,
Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố-trần.
Ô-kim vàng ấy ngàn cân,
Dương-gian muốn đổi lập thân cho tròn.

Trăm năm ghi tạc miễu son,
Trung-quân ái-quốc hãy còn danh bia.
Mặc tình tiếng nọ lời kia,
Chẳng màng thế sự đặt-bia nhiều lời.
Gẫm ra chuyện lạ ở đời,
Kẻ ngu người trí nhiều lời phân-vân.
Xưa kia bạo-ngược nhà Tần,
Đem lòng hung-ác giết lần văn-nhu.
Ước mong rắn đặng hóa cù,
Đồng tâm hiệp trí chữ tu dắt-dìu.
Lòng hiền giữ vẹn sớm chiều,
Xem kinh niệm Phật mỹ-miều mặc-ai.
Hưng-vong suy-thạnh xưa nay,
Cuộc đời vay trả, trả vay đổi đời.
Mấy ai trăm tuổi ở đời,
Được như Bành-Tổ mà rời lợi danh?
Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh,
Lánh nơi trần tục học hành đường Tiên.
Trả cho rồi nợ tiền khiên,
Đến ngày hiệp mặt kiểng tiên vui-vầy.
Làm sao rõ mặt tớ Thầy,
Tới chừng trăng rọi đài mây mới tường.
Bây giờ nạn ách còn vương,
Cha làm con chịu nhiều đường gai-chông.
Nhiều người kinh-sử lảu thông,
Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê.
Kiếm con hiền đức dắt về,
Về nơi cõi Phật Tây-Phương an nhàn.
Nợ trần con sớm liệu-toan,
Nghĩa-nhơn trọn-vẹn mới an tấm lòng.
Thuyền từ kêu gọi ngóng trông,
Trông cho dân-chúng bớt lòng tham-ô.
Chừng nào thấy được cơ-đồ,
Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình.
Đến đây thấy cảnh sanh tình,
Lòng son đòi đoạn công trình dạy khuyên.
Cứ lo chế ngạo Khùng Điên,
Ngày sau chịu mãi chữ phiền chữ đau.
Ngọt bùi lời đạo thanh-thao,
Đời còn mê-muội chừng nào mới thôi.
Vinh-hoa một bả làm mồi,

Để câu kẻ dại việc tồi chất lên.
Muốn mình lên đặng bực trên,
Hãy lo rèn đúc mới nên Thánh-Hiền.
Giống lành xưa cùng Rồng Tiên.
Ngày nay hung ác đảo-điên khắp cùng.
Mặc tình nghe phải thì dùng,
Chớ đừng bỉ-bạc kẻ Khùng làm chi.
Buồn đời gát bút nghĩ suy,
Suy cho cạn lẽ sầu-bi quá chừng.

Cầu ngã kiến văn tối thậm đa,
Thiện duyên tác phước ý như hà.
Phô trương vạn luong tam hài tuế,
Hội thính nạ thời kiến thạnh hoa.

Viễn lự ô hô chí Lão Bành!
Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh.
Hải qui thế-giái nam hòa vọng,
Nguyện dữ như hà dụng thức canh.

Kim phụng triều vương viễn khứ đình,
Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh.
Duyên-do phước thọ lai duy hiển,
Thủ đảnh thư hùng thục sử-kinh.

Quang-minh diện-mục khả hồ sơ,
Nhứt diệu phù-vân phú-quới cơ.
Quân-tử Thánh-nhơn hà đại lượng?
Liên hồng vạn thứ cảnh thiên-thơ.

Chợ-Vàm (Phú-An), ngày 23 tháng giêng Canh-Thìn, tại nhà Hương-Hào Phỉ.

Cho Thầy ba THẬN ở làng Phú-Lâm (tỉnh Châu-Đốc)

Đem vắng mà sao cảm quá dài,
Văn-nhu lão trưởng tiếng bi-ai.
Tầm nơi yếu lý câu huyền-diệu,
Thương thảm cho đời thưởng huệ mai.

Đoái tưỡng lòng ông quá đỗi hiền,
Dậm tràng tới viếng mượn ngòi nghiên.
Tỏ tình yêu quí người lương thiện,
Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng.

Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn

TỎ CÂU HUYỀN-BÍ

Đời đạo liên quan rạng chói ngời,
Trần-hoàn biển khổ thẳm vơi-vơi.
Thanh minh đạo-đức câu huyên-bí,
Mượn lấy bút nghiên tỏ ít lời.

Hồng-Lạc giống xưa rất tuyệt vời,
Sao mà dương-thế mảng lo chơi.
Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí,
Đạo-đức nhiệm sau lão khuyến mời.

Thiên sanh thiện tánh tác thì gia,
Tông-tích cổ kim lượng thử hà.
Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp,
Ngã hồi dương-thế thuyết huyền ca.

Đài phong liễu khước tạo Nam-gia,
Thiện chí hồ thiên thức Ngọc-tòa.
Trung sơn tế giáng Lư-Bồng kiểng,
Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa.

BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng,
SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang.
KỲ sanh tạo giả thi truyền tục,
HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang.

Ngũ hồ ly cấu tạn hài tiên,
Nguyền thuyết thanh danh tác thiện duyên.
Thậm thâm tối thiểu kim tàng cốc,
Đa giả khứ hồi giải nghiệp-duyên.

Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ,
Ngã thứ trung sanh trực thề thờ.
Ngỡi khí yên hùng ghi đảm liệt,
Hà giang lương thố vẽ thiên-cơ.

Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi,
Vạn năng sĩ-tử hiệp hòa ngôi.
Tam thanh truyện tích ghi biên tự.
Khán giả tận tường liệt võng khôi.

Canh niên viễn lự tối thi thần,
Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân.
Nam thức quân thần cuồng lão-sĩ,
Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân.

BỬU kiến trừng tâm dụng thể tiên,
SƠN sanh giả kế chưởng huyền thiên.
KỲ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
HƯƠNG vị tarầm thinh bí kỷ niên.

Phú-An, đêm 23-1 Canh Thìn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn