Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 2

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 43213)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 2

Ông HUỲNH HIỆP-HÒA (Làng Bình-Thủy, tỉnh Long-Xuyên) xướng:

Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm,
Phạn ngữ truyền lai tối thậm thâm.
Phanh luyện ô kim mong điểm đạo,
Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm.
Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển,
Phật Lão hư không bí khuyết thầm.
Thị nhị giáo-sư đoàn thuyết-pháp,
Tảo tương thích điển chúng-sanh tầm.

ĐỨC THẦY họa:

Mã hồi nhơn diện ngã kim châm,
Pháp-giáo phạn-văn bát diệu thâm.
Lam thất thanh chơn hà khuyết Đạo,
Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm.
Môn-gia khảo sát lai duy hiển,
Vị-khí nan thông ký cảm thầm.
Ngã thị vô biên nhiên lập pháp,
Hòa giai Nam-đỉnh tác thi tầm.

Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn

Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:

Chúng-sanh tầm đắc đạo nan minh,
Bửu-bối trừng tâm thể dụng tinh.
Cầm-kiếm đảnh lư an trí thủ,
Càn khôn nhựt nguyệt vị đồng linh.

Siêu phàm ôn dưỡng âm-dương số,
Nhập thánh đề khai thế-tục tình.
Thái-Thượng, Thích Xa luân kiếp giáo,
Đơn song đồ-đệ cổ kim minh.

ĐỨC THẦY họa:

Chúng-sanh khố diệt diện nan minh,
Ly cấu từ-bi cái thế tinh.
Nhan-Thước duyên-do tam diễn thủ,
Can trừ danh-vi nã kỳ linh.
Ngộ thâm nan liễu âm-dương số,
Xác tục trần gian cố dục tình.
Tho phỉ nam lương toàn khuyến-giáo,
Tam tồn ngôn xuất biện kim minh.

Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:

Hội trung bửu-cái cổ-kim truyền,
Tri giác hư linh kế lập thiên.
Siển, triệt phân minh Châu-Võ kỷ,
Âm, dương chuyển luyện Hớn-thê tiên.
Lôi-Âm kinh-ký khai đàn việt,
Sơn-Thứu từ tăng phản bổn nguyên.
Gia bác na thời di phổ hóa,
Huyền-cơ như thử kiếp trần yên.

ĐỨC THẦY họa:

Bửu gia nan hối thế-gian truyền,
Tam thế hư không tế kiệm thiên.
Nhơn ngã hạ-nguơn phân bất kỷ.
Qui hồi thượng-cổ bút thê tiên.
Chất âm, thinh, sắc phi tiêu-diệt,
Bài phỏng liêm-gia bế hộ nguyên.
Lập chí hiền-nhu đương kế hóa,
Thi thần ký chú định hòa yên.

Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:

Ngọc quang cảnh nội chủ càn-khôn,
Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn.
Âu-Á chiến tranh thùy thắng lợi?
Kim lê uổng-tử sắc hà môn?

Hà môn giáp tý giáng lâm trần,
Đào-tạo lương-tâm khổ não dân.
Xuất hiện mạng chơn phi quyết chiến,
Cấu ai trị địa hội quân thần.

ĐỨC THẦY họa:

Thành tha ngũ nội nã càn-khôn,
Cái thế vô linh mạng thích tôn.
U lịch bá trừ nô bính lợi,
Tiền đồ lê dị đắc giang môn.

Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
Khóc tử lang tâm biến họa dân.
Tà quái hạ nguơn khai ác-chiến,
Ất niên bình thự kiến quân-thần.

Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:

Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương,
Khẩu tụng Văn-Vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tậm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường. (1)
Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển căn-chương.

(1) Nếu chiết tự 6 câu của đầu bài nầy thì chúng ta thấy mấy chữ sau đây: Trạng Trình, Cữ Đa, Đề Thám, Ông Huỳnh Hiệp-Hòa muốn hỏi coi Đức Thầy có phải là một trong 3 ông đã kể trên dây chăng?

ĐỨC THẦY họa:

Hồi đầu điểm Đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng Cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp,
Phật-lý di khai đại-hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.

Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn

Ông HUỲNH TRUNG-HÒA (thầy ba Tươi ở làng Kiến-An, Long Xuyên) xướng:

Lưng chưng khó hiểu khách trần-gian,
Sớm mặn chiều chay lắm nhộn-nhàng.
Đặc đất phấn tình tô láng mép,
Cả trời lửa chướng đốt nồng gan.
Khéo đam điệu hạnh trêu màu Phật,
Đành để xương da nhuộm máu phàm.
Riêng tưởng trồng gieo rừng bác-ái,
Những mong trông ngóng đến Thiên-đàng.

ĐỨC THẦY đáp họa:

Từ rày đặng nẻo lánh trần-gian,
Chẳng hiểu mặn chay mới nhộn nhàng.
Ngao ngán cho người ôi quá mép,
Thương đời mê muội luống bầm gan.
Đạo mầu chẳng hiểu nên lừa Phật,
Hiển diệu ra cơ giác tỉnh phàm.
Dạ luống ước mong đời bác-ái,
Quyết lòng chỉ rõ nẻo Thiên-đàng.

Hòa-Hảo, mùng ba tết năm Canh-Thìn

Viếng non Ông KÉT

Non Tiên gió mát toại lòng thay,
Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Cố tưởng ước mơ về nhược thủy,
Ngăat vì không cánh lấy gì bay.

Dắt xác phàm phu viếng non Đoài,
Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.
Chư sơn Bảy núi đều qui tựu,
Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày.

Nhìn xem cây lá gió lung-lay,
Sáng lại lui chơn trở gót hài.
Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
Theo Thầy dắt chúng khỏi mồng cay.

Lầu đài núi Cấm lộ nay mai,
Thức tỉnh chúng-sanh mới tỏ bày.
Khuyên dạy dân tình minh đạo-đức,
Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai.
Trên non, ngày 14 tháng giêng năm Canh-Thìn

(Đức Thầy đọc bốn bài nầy cho ông Hương-giáo ở Thới-sơn (Châu-Đốc) viết tại trên non và khi về nhà, Đức Thầy còn đọc lại cho anh em tín-đồ chép)

Ông TÙNG (ở vàm Cái-Đầm, thôn Hòa-Hảo) hỏi ĐỨC THẦY:

Càn-khôn Tạo-Hóa ở một bầu,
Kính hỏi thăm Thầy vậy ở đâu?
Sắc ở Tà-Lơn hay núi Cấm?
Cán còn khâu mất cất ở đâu?

ĐỨC-THẦY họa:

Cũng biết càn khôn vẫn một bầu,
Tây-Phương yêu chúng chẳng ngồi lâu.
Sắc của A-Di là Phật-Tổ,
Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu?

Ông TÙNG hỏi:

Cắc-cớ vì đâu khéo vấn-vương,
Đem lời Phật Thánh dám bày tường.
Thiên-cơ bất khả sao ông nói?
Phật Thánh Tiên Thần dám phô trương.

ĐỨC THẦY họa:

Hồng nhạn ô qui thán giả hồ,
Thi thần đởm khí ngộ hà mô.
Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh,
Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô.

Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng,
Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông.
Khai cảnh nguyệt đài minh hạ giái,
Thới lai diện mục tác hài công.

Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn (Ông Nguyễn thanh-Tân có họa hai bài thi trên đây nhưng xin miễn chép).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn