Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 2

28 Tháng Sáu 200212:00 SA(Xem: 39073)
Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 2

HƯƠNG-CHỦ ĐẠT xướng :

(Ông Đạt ở làng Nhơn-Mỹ, tỉnh Long-Xuyên)

Đạo mầu phận tớ hiểu chưa rành,
Cầu nguyện Di-Đà độ chúng-sanh.
Bể giác, bờ mê mong thoát khỏi,
Nhờ thuyền bát-nhã giúp công thành.

ĐỨC THẦY họa:

Thâm diệu rồi đây cũng hiểu rành,
Một lòng nguyện độ tận nhơn-sanh.
Giác-mê hai chữ rồi ta chỉ,
Chí dốc ngày kia sẽ đạt thành.

H.H. năm Kỷ-Mão.

Ông NGUYỄN-THANH TÂN xướng :

(Ông Nguyễn-Thanh-Tân, tức Hương-lễ Ướng là người ở làng Mỹ-Hội-Đông, thuộc tỉnh Long-Xuyên. Theo lời một người con trai của ông, thì mấy bài dưới đây ông đã làm khi diện kiến Đức Thầy lần thứ nhứt):

Phận hèn cảm tương nghĩa non sông,
Hản mặt rồi đây khách cõi Bồng.
Cẩm-tú lắng tai người Nhược-thủy,
Từ-bi cảm-ứng thứ trung thông.

ĐỨC THẦY đáp họa :

Cảm nghĩa sĩ hiền tưởng núi sông,
Thương người đưa đến chốn tiêu Bồng.
Cẩm-tú lòng yêu vì quốc thủy,
Đợi thời đưa đến ứng trung thông.

H.H. năm Kỷ-Mão.

THANH TÂN hựu tác:

Mảng-mê danh-lợi đạo lu-bù,
Nhờ có ơn Thầy dẫn-dắt tu.
Mê tỉnh, tỉnh mê, mê phải tỉnh,
Bồ-đề say gục phá tam ngu.

ĐỨC THẦY họa:

Dạy chúng chưa xong dạ rối bù,
Mấy chục năm trường lạc chữ tu.
Sanh-chúng say mê, mê cho tỉnh,
Bồ-đề chẳng mến, ấy người ngu.

Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão.

THANH-TÂN vấn gia-đình

Gia-đình kỷ cá hội long đàn,
Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang.
Phi vụ tiến phong tầm chánh lý,
Nho tông vị bác hiệp tôn nhan.

ĐỨC THẦY đáp :

Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn,
Hai chữ từ-bi thẩm nghiệp an.
Bài trí năng soi chơn giáo-lý,
Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan.

H.H. năm Kỷ-Mão.

HIẾU NGHĨA VI TIÊN

Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,
Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền.
Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng-nghiệp,
Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên.

H.H. năm Kỷ-Mão.

(Ông Thanh-Tâm có họa lại bài trên đây, nhưng xin miễn chép).

CÚC CUNG BÁI

(cho ông Hương-lễ Ướng)

Cúc cung, hưng bái, cúc cung hoài,
Lui tới nhúng trề, xướng lại dai.
Ton tán, ton tờn thêm cóc xẻng,
Vỗ bồng vác hất, thấy càng gay

Khuyên thôi mà tiếc vẫn cung hoài,
Miến triu hơ-hà thiệt rất dai.
Sắp đến khó mong mà cóc xẻng,
Thất mùa chẳng rước thật là gay.

Vóc-vạc trung trung béo mập người,
Tuổi vừa sồn-sộn quá năm mươi.
Bụng to tai điếc ưa nghề lễ,
Thi phú thâm trầm chớ dể ngươi.

Khá khen cho đó ý như lời,
Chơn-chất hiền hòa ít nói chơi.
Nhu sĩ lương từ thêm cảm mến,
Nên làm thi phú ghẹo ngưới ơi!

H.H năm Kỷ-Mão.

(Ông Hương-lễ Ướng tức Nguyễn-Thanh-Tân có đáp họa 4 bài thi trên đây, nhưng xin miễn đăng)

BÀI CẦU CƠ

Nguyễn đắc thanh danh tam hữu phân,
Đa công hoài luyện thập niên phần.
Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá,
Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân.

(Bài nầy do một người ở Phú-Lâm, cầu cơ tại trên núi, đem đến Đức Thầy).

ĐỨC THẦY họa:

Nải chí thi âm tất hữu phân,
Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần.
Vạn ninh hà hải vi vương bá,
Viễn vọng thanh tân tảo phi vân.

H.H năm Kỷ-Mão.

NHỨC ĐẦU

Nhức đầu rang óc bởi vì đâu,
Nhức mỏi lòng trông dạ hết sầu.
Nhức dạ chờ ngày Trời trả phúc,
Nhức gân, nhức cốt cả trời Âu.

Nhức đầu bị tiếng nổ đâu đâu,
Nhức quyết làm cho chúng thoát sầu.
Nhức thống dân sanh gầy hạnh-phúc,
Nhức tràng lê-thứ khỏi lo âu.

H.H. năm Kỷ-Mão.

KHUYÊN BỎ DỊ-ĐOAN

Thiện-tín tới đây chớ ngã lòng,
Xác trần mê mệt nỗi long-đong.
Cậu, cô, chú bác đừng coi bói,
Theo lối dị đoan mất bạc đồng.
Bạc đồng chẳng dụng, dụng chơn không,
Quyết chí nâng-niu giống Lạc-Hồng.
Tìm-tõi Đạo mầu trong Phật-Pháp,
Cho đời hiễu rõ lý chơn không.

H.H. năm Kỷ-Mão.

(Đức Thầy viết bài nầy vì lúc đó có nhiều người đến nhờ Ngài đoán giùm vận mạng hoặc việc gia-đình)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn